45 năm thực hiện di chúc của bác

Qua 45 năm thực hiện di chúc của Bác Hồ, đất nước đã đạt nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Sau 6 năm, kể từ ngày Bác đi xa, năm 1975, Đảng và Nhân dân ta đã thực hiện được lời dạy của Bác, giành thắng lợi trọn vẹn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu Thực hiện Kế hoạch số 190/KH-UBND ngày 07/10/2022 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang về tổ chức Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (09/11/2022), Ngày 11/10/2022 Cục Thi hành án dân sự ban hành Công văn chỉ đạo Thủ trưởng các đơn vị thuộc Cục, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự Thứ Tư, 27/8/2014 19:43' (GMT+7) “45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. (TG)- Những điều căn dặn và mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong bản Di chúc thật giản dị nhưng thấm đẫm tinh thần nhân văn cao cả của một con người luôn tận trung với Lạy Chúa Giêsu, Con Yêu Dấu của Chúa Cha, xin thương xót chúng con! Lạy Chúa Kitô, Chúa đã mặc lấy xác phàm để cảm thấu thân phận mỏng dòn của chúng con, xin thương xót chúng con! Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chiến thắng sự dữ và tử thần, xin thương xót chúng con! 7. Thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, ngày 15/5/2016, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. model baju batik untuk orang kurus agar terlihat gemuk. Trong những lời căn dặn của Bác, lời đầu tiên, Người dặn về Đảng và việc đầu tiên được Người nhấn mạnh là thực hành đoàn kết, thực hành dân chủ trong Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm xã lấn biển Nam Cường, Tiền Hải, Thái Bình, tháng 3/1962. Ảnh Đây là điều hệ trọng và quyết định đối với thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, đối với sự bền vững của chế độ, đồng thời đối với sinh mệnh của Đảng, nhất là khi Đảng ở vị thế cầm quyền. Phải bắt đầu từ mỗi đảng viên, cán bộ và từng tổ chức đảng Bản viết lần đầu tiên, năm 1965 Người ghi “Trước hết nói về Đảng”. Tháng 5/1968, khi sửa Di chúc, Người viết rõ thêm về điều hệ trọng này. Người trù tính những việc phải làm sau khi cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi. Người viết “Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân…”. Trong Di chúc, Người còn khẳng định “Đảng ta là một đảng cầm quyền” và Người dành cả một đoạn để nói về trách nhiệm của Đảng, về sự rèn luyện tu dưỡng đạo đức cách mạng của cán bộ đảng viên. Toát lên trong toàn bộ nội dung bản Di chúc là lời căn dặn của Người, phải củng cố bền chặt mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân. Đảng và Chính phủ cũng như Nhà nước nói chung phải làm hết sức mình để phục vụ nhân dân, chăm lo tới cuộc sống của người dân. Nỗi đau lớn, dằn vặt Người suốt bao năm tháng là tình trạng bất hòa giữa các Đảng anh em trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Người căn dặn Đảng ta phải làm hết sức mình, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết. Người cũng tin tưởng sâu sắc rằng, các Đảng anh em, các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại. Đoàn kết là một tư tưởng lớn, đó là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là chính sách chính trị lớn nhất, bao trùm nhất, trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn của Đảng, của Hồ Chí Minh mà Người đã dày công xây đắp cũng như ra sức thực hành mẫu mực nhất trong cả cuộc đời. Những chỉ dẫn của Người về đoàn kết mang tính toàn diện, từ đoàn kết trong Đảng đến đoàn kết trong dân và đoàn kết quốc tế, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp công nhân. Điều sâu xa và cảm động nhất là điều Người căn dặn “Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Muốn vậy, phải chú trọng thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, phải thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình. Theo Người, đó là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Cũng như vậy, việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các Đảng anh em phải trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình. Người đã chỉ rõ cả mục đích và nguyên tắc, cả phương pháp và điều kiện để thực hiện đoàn kết, cả lý luận khoa học lẫn đạo đức, cả giá trị truyền thống và ứng xử văn hóa không chỉ để thực hành dân chủ và đoàn kết trong Đảng mà còn trong xây dựng Đảng nói chung. Ở đây, trong vấn đề Đảng, điều làm ta thấm thía từ Di chúc của Người là ở chỗ, Người đề cập tới sự cần thiết phải chỉnh đốn lại Đảng, coi đó là việc trước tiên phải làm ngay sau khi cách mạng giải phóng miền Nam đã hoàn toàn thắng lợi. Người hình dung ngày thắng lợi đang đến gần, đó sẽ là bước ngoặt trong sự phát triển của cách mạng nước ta, tình hình mới, nhiệm vụ mới đặt ra, đòi hỏi Đảng phải ngang tầm nhiệm vụ, đảng viên cán bộ phải nêu cao tính tiền phong gương mẫu, nêu cao trách nhiệm và đức hy sinh để trọn đời vì dân vì nước. Làm thế nào để Đảng không xa dân Chỉnh đốn lại Đảng có hàm nghĩa sâu xa, toàn diện, từ chỉnh đốn tổ chức đến chỉnh đốn tư tưởng, đạo đức, phương pháp và phong cách, sao cho luôn luôn tỏ rõ là một Đảng cách mạng chân chính, có sức chiến đấu, thống nhất tư tưởng để thống nhất ý chí và hành động, muôn người như một người, chỉ vì dân mà tồn tại, chỉ vì dân mà hành động, có dũng khí tự phê bình và phê bình, kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nêu cao đạo đức cách mạng, vượt qua những cám dỗ của Danh và Lợi để tận trung, tận hiếu với nước với dân, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân. Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, ở cương vị người đứng đầu Đảng và Nhà nước trong nhiều chục năm, Người thấu hiểu những mặt mạnh và những mặt yếu của Đảng, những yếu kém, khuyết điểm của các tổ chức Đảng, của cán bộ đảng viên. Người đã từng băn khoăn, lo lắng nhiều điều mà một trong những mối bận tâm lớn nhất của Người là làm thế nào để Đảng không xa dân khi đã cầm quyền, để Đảng thực sự tiêu biểu cho đạo đức và văn minh, để mỗi cán bộ đảng viên thực sự là những tấm gương sáng cho dân noi theo. Lời dặn của Người, việc trước hết, trước tiên phải chỉnh đốn lại Đảng, vào lúc này càng trở nên cấp thiết, bức xúc và có tính thời sự biết nhường nào. Cách tốt nhất để thực hiện lời dặn hệ trọng và thiêng liêng đó của Người vào lúc này là ra sức làm tốt những gì chưa làm được theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI của Đảng, khắc phục bằng được tình trạng suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp hiện nay để lấy lại niềm tin của dân với Đảng đang bị giảm sút nghiêm trọng. Người để lại cho chúng ta những chỉ dẫn quý báu về Đảng cầm quyền và xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh. “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đảng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân…”. Trong đoạn ngắn này, 4 lần Người nhấn mạnh đến “thật” và “thật sự”, tất cả đều xoay quanh vấn đề đạo đức và trách nhiệm trong quan hệ với dân, trong mục đích vì dân, trong sứ mệnh cao cả phục vụ dân, trong tư cách “người lãnh đạo” và “người đầy tớ” thật trung thành của nhân dân. Ta nhớ lại, 67 năm về trước, vào năm 1947, Người viết “Sửa đổi lối làm việc” - tác phẩm thể hiện tư tưởng đổi mới đầu tiên khi Đảng đã cầm quyền. Trong tác phẩm quan trọng này, Người đã vạch ra 12 điều xây dựng Đảng cách mạng chân chính, làm nổi bật mối quan hệ giữa Đảng với dân, nêu cao một tư tưởng lớn “dựa vào dân mà xây dựng Đảng”, chỉ với 456 từ với 12 điều mà bao quát đầy đủ cả một chủ thuyết về Đảng cầm quyền và xây dựng Đảng Cộng sản cầm quyền. Và trong Di chúc, với 57 từ, Người đã 4 lần nhắc tới chữ “thật”, khẳng định Đảng ta là Đảng cầm quyền và đặt lên hàng đầu việc trau dồi đạo đức cách mạng. Người đã để lại cho Đảng ta một triết lý đạo đức, thấm nhuần tinh thần minh triết đạo đức trong xây dựng Đảng. Về lý luận, đây là cống hiến vô giá của Hồ Chí Minh đối với kho tàng kinh điển Mácxít. Về thực tiễn, đây là cẩm nang hành động cho Đảng ta, là bí quyết cho sự sống, sự bền vững và sinh mệnh của Đảng. Đảng phải đi tiên phong trong đổi mới Thực tiễn lịch sử và kinh nghiệm đã đúc rút cho Đảng ta một bài học lớn, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là bảo đảm có tính chất quyết định mọi thắng lợi, mọi thành công của cách mạng. Làm thế nào để có được giá trị và sức mạnh đó của Đảng thì như Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, đó là chất lượng của đội ngũ cán bộ đảng viên, là uy tín và ảnh hưởng sâu rộng của Đảng ở trong dân và trong xã hội. Người đã từng nhấn mạnh, phải làm cho dân giác ngộ, dân tin tưởng, dân yêu mến, dân ủng hộ, dân giúp đỡ và dân bảo vệ. Cách mạng lấy sức mạnh trong lòng dân. Đó là sức mạnh tự bảo vệ tốt nhất đối với đảng cách mạng, người cách mạng. Trụ sở Trung ương, tốt nhất là xây dựng trong lòng dân, đã có lần Người nói như vậy. Trong lần sửa Di chúc tháng 5/1968, Người viết thêm “làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”. Ta thấy rõ chủ đích của Người. Người không chỉ căn dặn kỹ lưỡng, thấu đáo cơ quan lãnh đạo đầu não là Trung ương, “phải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo, để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm”, mà Người còn đặc biệt chú ý tới từng chi bộ những tế bào của Đảng làm nên sự sống của cơ thể Đảng, chú ý tới cơ sở, tới con người đảng viên, đoàn viên. Chỉ dẫn của Người ứng dụng vào ngày hôm nay trong đổi mới, có nghĩa là, Đảng phải đi tiên phong trong đổi mới, Đảng tự đổi mới chính mình để thúc đẩy đổi mới xã hội, phải huy động sức mạnh của toàn dân, từ cơ sở, của cả hệ thống chính trị vào việc xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Đó là công việc của toàn dân đối với Đảng của mình. Xây dựng Đảng, nhất là khi Đảng đã cầm quyền, không nên và không thể chỉ là việc nội bộ của Đảng. Quan hệ giữa Đảng với dân, Nhà nước với dân, Mặt trận và các đoàn thể với dân là những huyết mạch duy trì sức sống của Đảng, sự bền vững của chế độ, của chính thể. Nhận thức đúng và giải quyết tốt các mối quan hệ này, trong điều kiện Đảng lãnh đạo và cầm quyền hiện nay trước muôn vàn diễn biến phức tạp của tình hình thời cuộc bởi toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, lại hàng ngày phải đối mặt với những tác động mặt trái của kinh tế thị trường, cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước, giữa Đảng với Mặt trận và các đoàn thể, do đó phải đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đổi mới tổ chức bộ máy thiết chế và hoàn thiện thể chế. Tất cả đều có sự tham gia của dân, sự đánh giá của dân, hoạt động trực tiếp của dân trong đời sống chính trị. Đảng, Nhà nước và nhân dân đều thực hành dân chủ và đoàn kết, thực hành dân vận và thực hành đạo đức cách mạng mà Người đã nêu gương, đã chỉ dẫn trong Di chúc. Có thể nói, để đổi mới và phát triển nước ta thành công theo mục tiêu đã đề ra thì đổi mới, chỉnh đốn Đảng để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đang trở thành vấn đề của mọi vấn đề mà Đảng ta coi là khâu then chốt. Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh phải tập trung làm tốt khâu then chốt đó./. Theo Hoàng Chí Bảo Hội đồng Lý luận Trung ương Huyền Trang st Những ngày này, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kỷ niệm 50 năm ngày Bác mất và 50 năm thực hiện Di chúc của Người 1969 -2019, thì 5 lời thề lại soi rọi, nhắc 19/9/1954, tại sân Đền Giếng trong Khu di tích Đền Hùng Phú Thọ, trước khi về tiếp quản Thủ đô, cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn Quân tiên phong - Sư đoàn 308 - được nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện thân mật. Người căn dặn "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Ảnh Đinh Đăng Định/TTXVN phátGiáo sư, Tiến sỹ Triết học Hoàng Chí Bảo, chuyên gia cao cấp, thành viên Hội đồng Lý luận Trung ương, Chủ tịch Hội đồng Khoa học, Viện Khoa học nghiên cứu nhân tài - nhân lực ISSTH, người đã có hơn 40 năm nghiên cứu về cuộc đời, tư tưởng, sự nghiệp của Bác Hồ, cho biết Ngày 9/9/1969, trong Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân Việt Nam, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã đọc Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trước anh linh của Người, trong đó có 5 lời thề nguyện hoàn thành Di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh để đưa đất nước tới thắng lợi cuối cùng. Suốt 50 năm qua, đất nước đã thực hiện nghiêm 5 lời thề Nén đau thương biến thành sức mạnh, quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Bắc Nam sum họp một nhà; kiên trì lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, quyết tâm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam; giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình; phát huy tinh thần quốc tế cao đẹp, làm tất cả vì hạnh phúc của nhân dân; toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nguyện học tập, làm theo đạo đức trong sáng, mẫu mực của Chủ tịch Hồ Chí Minh với 4 chữ “cần - kiệm - liêm - chính”.Giáo sư, Tiến sỹ Hoàng Chí Bảo đánh giá Lời thề thứ Nhất và lời thề thứ Hai đã được thực hiện xuất sắc. Lời thề thứ Ba, vào lúc này là hết sức thiêng liêng và đang được Đảng hạ quyết tâm thực hiện, đẩy mạnh, coi là nhiệm vụ của mọi nhiệm vụ, then chốt của mọi then chốt. Trong Di chúc, Người nói là “Trước hết nói về Đảng”, “trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”, “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Bác là người sáng lập ra Đảng. Người biết mọi chỗ mạnh, chỗ yếu của Đảng nên đặc biệt nhấn mạnh đến trọng trách lịch sử của Đảng, tính tiền phong gương mẫu và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, suốt đời chăm lo cho cuộc sống của dân, tận tụy trung thành với dân, với nước. Mong muốn của Bác là phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Đào tạo thế hệ cách mạng cho đời sau và những công việc quan trọng khác.“Ba tháng trước khi mất, Người gửi thư cho Đảng bộ Nghệ An. Nội dung chỉ có 3 câu Không được để dân đói, Không được để các cháu bỏ học. Từ chi bộ các thôn làng đến cơ quan lãnh đạo của Tỉnh ủy không được để xảy ra mất đoàn kết. Bây giờ nhìn lại thì thấy đâu phải Bác dạy mỗi Nghệ An mà Bác dạy chung cho toàn Đảng, cho tất cả chúng ta”, Giáo sư, Tiến sỹ Hoàng Chí Bảo nhấn Giáo sư, Tiến sỹ Hoàng Chí Bảo, Lời thề thứ Tư đối với Người, chúng ta đã thực hiện suốt 50 năm qua và bây giờ đang tiếp tục thực hiện trong thời kỳ hội nhập. Lời thề thứ Năm là lời thề về “đạo đức” và lời thề này sống động nhất hiện nay khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức thực hiện “cần, kiệm, liêm, chính”.Về vấn đề đạo đức, Bác có 6 Điều dạy Công an là “Với tự mình phải cần, kiệm, liêm chính. Với đồng sự phải thân ái giúp đỡ. Với nhân dân phải kính trọng, lễ phép. Với Chính phủ phải tuyệt đối trung thành. Với công việc phải tận tụy. Với kẻ địch phải cương quyết, khôn khéo”. 6 Điều dạy ấy không chỉ dành cho công an mà cho toàn Đảng, toàn dân. Bác cũng đã dạy Trời có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Người có bốn đức Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Thiếu một mùa thì không thành trời. Thiếu một phương thì không thành đất. Thiếu một đức thì không thành người. Phải đủ cả bốn đức mới là người vẹn toàn. Nhưng ở đời nhân vô thập toàn, không ai là hoàn toàn cả, ai cũng có cái hay, cái dở, cái tốt, cái xấu. Nếu muốn trở thành người vẹn toàn thì phải rèn luyện bản lĩnh cách mạng, phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá chủ nghĩa cá nhân theo tư tưởng của Bác là chống lối sống vụ lợi, vị kỷ, lợi mình hại người, còn từng cá nhân phải vun trồng cho nó phát triển. Chủ nghĩa cá nhân là giặc nội xâm. Giặc nội xâm còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Đấy là một triết lý về rèn luyện đạo đức, đó là lời căn dặn, nhắn nhủ trong việc rèn đạo đức. Chống giặc nội xâm, chống chủ nghĩa cá nhân là chống lại chính bản thân mình, chống lại những thói hư, tật xấu, những hư hỏng thoái hóa trong mình, cho nên sẽ có không ít sự đau đớn ở trong lòng. Bác bảo Rèn đạo đức thì như giã gạo, nhưng dùng người thì tuyệt đối không dùng theo lối giã gạo, thấy tốt thì nhấc lên, đề bạt, bổ nhiệm, rồi không kiểm tra, giáo dục, giám sát, mắc lỗi lầm thì vùi dập xuống. Cứ nhấc lên đập xuống như vậy ba lần thì hỏng cả một đời cán bộ. Cho nên, phải nghiêm khắc mà bao dung; nghiêm khắc với khuyết điểm nhưng bao dung nhân ái để mở rộng đường cho con người hướng thiện và hoàn qua, Bộ Chính trị Khóa XII có Chỉ thị số 05 về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Chỉ thị này đặt tấm gương đạo đức của Bác vào tổng thể tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người. Chúng ta đang nỗ lực thực hiện bằng được chủ trương lớn của Đảng. Đây là một chiến lược, là chìa khóa để trả lời câu hỏi Đảng có trong sạch, vững mạnh được hay không. Đây cũng là một cơ hội tốt để mỗi người chúng ta thật thà tự phê bình và phê bình, xem xét lại mình một cách nghiêm túc, thấy rõ những sai lầm để sửa chữa, thấy rõ những ưu điểm để phát huy thêm. Từ đó, tất cả mọi người đem lòng đoàn kết với tình thương yêu đồng chí, đồng loại và giúp nhau tiến bộ, vứt bỏ chủ nghĩa cá nhân để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, như Bác Hồ vẫn hằng mong đợi. Đồng thời, đây là dịp để mỗi người Việt Nam biến những tư tưởng, tình cảm cao đẹp của mình thành những việc thiết thực, Giáo sư, Tiến sỹ Hoàng Chí Bảo khẳng định. ĐCSVN - Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đảng vĩ đại là ở nơi Đảng biết tìm thấy sức mạnh từ trong nhân dân, vì nhân dân mà làm việc, cống hiến. Chính vì vậy, Bác căn dặn “Việc gì có lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được. Việc gì có hại cho dân, thì phải hết sức tránh”. Sau 45 năm thực hiện Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta đã, đang và sẽ nỗ lực không ngừng để làm cho người dân Việt Nam ngày càng ấm no, hạnh phúc. Ảnh TH Vì con người, vì nhân dân – một triết lý nhân văn cao cả Suốt cuộc đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, ai cũng có quyền mưu cầu hạnh phúc. Bởi vậy, trước lúc đi xa, trong bản Di chúc của Người, tư tưởng vì con người và giải phóng con người thấm đượm chủ nghĩa nhân đạo cao cả, một triết lý nhân sinh mà Người đã dày công xác lập. Trong Di chúc, Người nói về nhân dân vừa chứa chan tình yêu thương, vừa rất tự hào “Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hǎng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng”. Trong thực hiện chính sách xã hội, Người đề cập cụ thể đến từng đối tượng, cảnh ngộ, thân phận. Vấn đề con người trong tư tưởng nhân văn Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện trong Di chúc là tình yêu thương đối với tất cả mọi tầng lớp người trong xã hội. Người căn dặn, phải có một chính sách đặc biệt đối với mọi tầng lớp nhân dân đã vì Tổ quốc mà hy sinh. Theo Người, đó là công việc nhất thiết phải làm, dẫu khó khăn, phức tạp đến mấy cũng phải ra sức làm… Cụ thể, đối với cha mẹ, vợ con của các liệt sĩ, thương binh thì chính quyền địa phương và toàn xã hội phải “giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”… Ngay đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, Người cũng nhắc nhở “Nhà nước phải vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp đỡ họ trở nên những người lao động lương thiện”. Giáo sư, Tiến sỹ Mạch Quang Thắng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng không phải ngẫu nhiên mà trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Công việc đầu tiên là đối với con người”, Bác dặn các thế hệ cách mạng phải chăm lo đến lợi ích của con người và Đảng cầm quyền có kế hoạch thật tốt để chăm lo đời sống nhân dân. Với trái tim đầy tình yêu thương, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu và đồng cảm với nỗi thống khổ vì áp bức bất công, vì những gian lao, mất mát trong chiến tranh của nhân dân lao động từ miền xuôi đến miền ngược. Người đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho nông dân để đồng bào thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất sau nhiều năm liên tục góp sức người, sức của, vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Đây là một sự quan tâm thiết thực của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với nông dân. Trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta trước lúc đi xa, Người đã nghĩ đến chuyện sau chiến tranh trong việc bình công, báo công và chăm lo những người đã đóng góp cho cách mạng. Người thấu hiểu những người nông dân là những người vất vả, cực khổ nhất. Nhấn mạnh đến chủ nghĩa nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ quan điểm về con người trong Di chúc là chủ nghĩa nhân văn hành động, nhằm “giải phóng và phát triển con người”, Tiến sĩ Doãn Thị Chín, Học viện Báo chí và Tuyên truyền khẳng định Chủ nghĩa nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là tình yêu thương mà còn là niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh phẩm giá con người, nhất là nhân dân lao động. Chủ nghĩa nhân văn của Người là “mọi suy nghĩ, hành động” đều phải về con người cụ thể, con người số đông, biến mọi suy nghĩ thành hành động giải phóng người lao động. Tiếp tục không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân Cả cuộc đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh "chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Với mong ước về một xã hội phồn vinh, hạnh phúc cho nhân dân, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại lời di huấn thiêng liêng “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Người đã đề cập đến công việc cụ thể, từng đối tượng, cảnh ngộ, thân phận để thực hiện chính sách xã hội, phát huy nguồn lực con người. Thực hiện Di nguyện của Người, Đảng đã đề ra và lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công công cuộc đổi mới, đưa nước ta từng bước ra khỏi khủng hoảng, ổn định và nâng cao đời sống nhân dân. Từ một nước phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam đã vươn lên trở thành một nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Đặc biệt, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách, biện pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội để làm cho dân ta ngày một ấm no, hạnh phúc. Nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử Đời sống của người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ đói nghèo đã giảm mạnh từ mức hơn 60% năm 1990 xuống còn khoảng 7,6% năm 2013…Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta vẫn còn những hạn chế, khó khăn đang tồn tại. Đó là khoảng cách, nguy cơ tụt hậu giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới ngày càng lớn. Nền kinh tế tuy đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra. Kết quả đạt được của nền kinh tế chưa vững chắc, lạm phát tuy được kiềm chế nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ quay trở lại. Hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Nhiều vấn đề xã hội phức tạp nảy sinh chưa được giải quyết triệt để, đặc biệt là vấn đề việc làm và an sinh xã hội; chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước… Để thực hiện được theo Di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lê Quốc Lý, Phó Giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng Chúng ta phải khắc phục được những hạn chế đang tồn tại. Điều này đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân phát huy sức mạnh nội lực, tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh". “Để đất nước phát triển bền vững, đời sống nhân dân tiếp tục được nâng lên thì Đảng ta càng cần phải thấm nhuần tư tưởng trọng dân, thân dân trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời phải luôn luôn xác định mục tiêu, ý chí và nhiệm vụ chính trị của Đảng là phục vụ nhân dân” – Lê Quốc Lý nêu rõ. Có thể nói, sau 45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta đã, đang và sẽ nỗ lực không ngừng để làm cho người dân Việt Nam ngày càng ấm no, hạnh phúc. Tư tưởng nhân văn cao cả trong Di chúc vẫn đang tiếp tục soi sáng trên mỗi bước đường đi và sự nỗ lực không ngừng nghỉ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta để vươn tới điều mong muốn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc là “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”./. Di chúc Bác viết vào dịp sinh nhật của mình trong suốt 5 năm, khi còn rất minh mẫn, sáng suốt. 5 năm Bác trăn trở, suy nghĩ kỹ càng, viết đi, viết lại, sửa chữa, bổ sung… Do vậy, bản Di chúc tuy vô cùng ngắn gọn súc tích, nhưng hầu như đã chứa đựng toàn vẹn. Bốn mươi lăm năm ngày Bác đi xa, tác giả viết bài này xin nêu những cảm nhận. Là người sáng lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời chăm lo cho việc xây dựng Đảng, đảm bảo cho đảng đủ điều kiện và sức mạnh lãnh đạo toàn dân tộc. Điều đầu tiên Bác nhắc tới trong bản thảo năm 1965, bút tích sửa năm 1966, viết bổ sung năm 1968 là nói về Đảng. Người đánh giá cao vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng trong lịch sử và hiện tại, đồng thời chỉ rõ Điều làm nên sức mạnh của Đảng là sự Đoàn kết, phải giữ gìn sự đoàn kết như giữ con ngươi của mắt mình[1]. Bác nhắc các nguyên tắc sống còn của xây dựng Đảng là Tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình. Lôgíc của Người rất rõ ràng Muốn lãnh đạo toàn dân tộc, Đảng phải đoàn kết. Đoàn kết phải trên cơ sở dân chủ, tập trung, tự phê bình và phê bình. Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là Trong phê bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường đặt mệnh đề tự phê lên trước và Người nhiều lần dặn chúng ta cách phê bình. Từ năm 1947, khi viết Sửa đổi lối làm việc, Người dặn Khi phê bình nhớ phê bình việc chứ đừng phê bình người. Năm 1966, Người chỉ bổ sung một câu vào Di chúc Phê bình phải trên tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Bản thảo Di chúc Hồ Chí Minh sửa chữa năm 1969. Với sứ mệnh của một Đảng cầm quyền, điều Chủ tịch Hồ Chí Minh thường lo lắng là sự tha hóa của người có quyền lực trong tay. Do vậy, Người luôn luôn nhấn mạnh tới vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Trong bản Di chúc bổ sung năm 1968, Người dặn Ngay sau khi giành thắng lợi, “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại đảng”. Trước đây, Lênin đã từng cảnh báo bệnh kiêu ngạo. Ngay sau khi có chính quyền chưa đầy một tháng, ngày 17 tháng 10 năm 1945, Hồ Chí Minh đã phải viết thư lên án các “quan cách mạng”. Cả cuộc đời Hồ Chí Minh nêu gương đạo đức, thực hành đạo đức và yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải thực hành đạo đức. Bài viết trong loạt bài cuối cùng của Người là Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân và trong các bản Di chúc, Người dặn nhiều lần phải “thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư…”, phải “làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”. Để kế tục sự nghiệp của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn phải chú ý bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, thông qua việc chăm sóc, đào tạo thế hệ trẻ có đạo đức, có năng lực”vừa hồng, vừa chuyên”. Có được thành quả hôm nay, toàn dân ghi nhớ công ơn của Đảng và điều đó chứng tỏ Đảng đã làm theo lời dạy của Bác Hồ. Tuy vẫn còn “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, song tuyệt đại đa số đảng viên đã thực hiện tốt Điều lệ Đảng, giữ vững phẩm chất, khí tiết. Hiệu ứng tích cực của cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đang nhắc nhở mỗi người hãy làm tốt phận sự của mình, lấy hiệu quả công việc làm thước đo giá trị đạo đức. Giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc luôn luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là nghĩa vụ, trách nhiệm hàng đầu. Bản viết năm 1965, bản viết năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều khẳng định quyết tâm to lớn, kiên quyết giải phóng miền Nam dù có phải gian khổ hy sinh nhiều của, nhiều người. Tháng 5 năm 1982, người viết bài này có dịp được đi công tác miền Nam với đồng chí Vũ Kỳ, nguyên Thư ký riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm đó là Phó Viện trưởng Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh. Trong một lần nói chuyện ở Phú Khánh, đồng chí Vũ Kỳ có kể rằng Bác luôn đau đáu với việc giải phóng miền Nam. Bác đã từng viết “Nếu tôi không được tự mắt trông thấy thực hiện cuộc thắng lợi đó, thì tôi phải tự trách mình không làm tròn nhiệm vụ đối với đồng bào miền Nam”. Không phải ngẫu nhiên mà phần nói về giải phóng miền Nam trong bản thảo mấy năm đầu Bác để ở giữa Di chúc, nhưng đến bản cuối cùng viết ngày 10/5/1969, Bác đưa ngay thành câu mở đầu. Tháng 1-1973, thực hiện Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, quân đội Mỹ đã làm lễ cuốn cờ rút khỏi Việt Nam. Hành động này của Mỹ đã ghi nhận thắng lợi đầu tiên của quân dân ta làm theo Thơ chúc Tết của Bác Hồ Xuân 1968 “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” và ngày 30-4-1975, khi quân giải phóng cắm cờ trên nóc Dinh Độc lập, đập tan chính quyền Việt Nam Cộng hòa, chúng ta đã toàn thắng, non sông thu về một mối, thỏa lòng mong ước của Bác Hồ. Quan tâm tới con người luôn chiếm vị trí quan trọng trong chỉ đạo và điều hành đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1945, Người đã từng nói “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”[2]. Lúc sinh thời, Người chăm lo từng bữa ăn, giấc ngủ của dân, lo phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, lo cho từ nơi cùng xóm vắng đến hải đảo xa xôi bi bô tiếng trẻ học bài. Những người tủi hèn nhất trong xã hội, nhận được ở Người tình thương yêu nhiều nhất. Trong Di chúc, Người nhắc đến tất thảy mọi người, từ bà con lao động, công nhân, nông dân, thanh niên, học sinh, trí thức… Người căn dặn Đảng “phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Sau Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968, nhiều vấn đề hậu chiến được Bác đặc biệt quan tâm. Trong 6 trang viết thêm năm 1968, Người dành tới 4 trang để căn dặn kỹ mọi việc cần làm sau chiến thắng, đó là chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, quan tâm tới những cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong, nhất là phụ nữ, lựa chọn những người trẻ tuổi đã kinh qua chiến đấu cho đi học tập đào tạo; đặc biệt, cần quan tâm tới nông dân, giai cấp đông đảo nhất trong xã hội, đóng góp nhiều sức người, sức của trong các cuộc kháng chiến. Người còn căn dặn “Đối với nạn nhân của chế độ cũ… thì nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”. 40 mươi năm sau giải phóng, “điều đầu tiên là công việc đối với con người” đã được Đảng ta thực hành từng bước có hiệu quả. Sau gần 10 năm say sưa với thắng lợi cộng với sai lầm trong quản lý kinh tế, gây khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng, năm 1986, Đảng đã tiến hành đổi mới toàn diện. Thành tựu gần 30 năm đổi mới đã biến một một nước thuộc diện đói nghèo trở thành một nước bước vào ngưỡng cửa của một xã hội phát triển. Tuy một số giá trị của thời “bao cấp” mất đi, như giáo dục, chữa bệnh không mất tiền… song độc lập được giữ vững, chủ quyền được vẹn toàn, con người năng động hơn, kinh tế tăng trưởng tốt hơn, cuộc sống người dân và an sinh xã hội tốt hơn, người nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí… Tinh thần hòa hợp dân tộc, xóa bỏ mặc cảm với những người từng cộng tác với chính quyền cũ… được các cấp chính quyền và nhân dân các tỉnh phía Nam thực hiện, đã đem lại cuộc sống bình yên cho tất cả mọi người. Các mục tiêu “Điện, Đường, Trường, Trạm” đã làm cho bộ mặt nông thôn thay đổi hẳn. Nếu như trong Di chúc, Bác chỉ mới nêu miễn thuế nông nghiệp một năm cho nông dân, năm 1990, Đảng thực hiện nhưng xin miễn chia ra làm hai năm để đỡ thất thu ngân sách, thì hôm nay, người nông dân không phải đóng bất cứ khoản thuế nào, kể cả “thủy lợi phí” cũng được miễn. 45 năm sau ngày Bác mất, chúng ta vẫn chưa có chủ nghĩa xã hội thực sự, chúng ta đang trong quá trình đổi mới để biến nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước. Từ năm 1957, nói chuyện ở trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc, Bác đã dặn Đi lên chủ nghĩa xã hội là cả một quá trình lâu dài, không được nóng vội vì “chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta”[3]. Chúng ta vẫn trong chặng đường đầu tiên của chủ nghĩa xã hội, song những gì Đảng đã và đang mang lại cho dân theo chiều hướng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc hơn, đó chính là chủ nghĩa xã hội, bởi với Người, chủ nghĩa xã hội rất giản dị và thực tế “Chủ nghĩa xã hội là mọi người cùng ra sức lao động sản xuất để được ăn no, mặc ấm, và có nhà ở sạch sẽ”[4]. Có lẽ điều day dứt, bất an duy nhất của Bác trong Di chúc là khi nói về phong trào cộng sản quốc tế. Là người đã từng tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, người chịu trách nhiệm tổ chức phong trào cách mạng ở Đông Nam Á, là “người Cộng sản già” có uy tín trong Quốc tế Cộng sản, hơn ai hết, Hồ Chí Minh “đau lòng về sự bất hòa hiện nay giữa các Đảng anh em”. Thưa Bác, nếu còn sống chắc Bác còn đau lòng hơn khi thấy họ không chỉ bất hòa, mà còn nhân danh Đảng cầm quyền ở một nước lớn, xua quân sang” dạy cho nước nhỏ một bài học”… Tuy nhiên, tuân theo lời dạy của Bác, Đảng ta đã làm hết sức mình, có trách nhiệm với phong trào Cộng sản thế giới, với anh em, bè bạn. Và chỉ riêng việc Đảng ta kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đổi mới thắng lợi ở Việt Nam, đã là hành động thiết thực bảo vệ phong trào Cộng sản quốc tế. Lịch sử có lúc thăng trầm, nhưng xu hướng dân chủ, hòa bình và tiến bộ vẫn là dòng chủ lưu chính của xã hội hôm nay. Về việc riêng Có người đã cẩn thận đếm từng chữ trong mục “Về việc riêng” do Bác viết ở bản Di chúc năm 1969. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên hay cố ý vừa đúng 79 chữ. Tôi cho rằng, Bác đã tiên lượng được sự ra đi của mình đang ngày một đến gần Năm 1965, Bác viết Ai đoán biết tôi sẽ sống và phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng mấy năm mấy tháng nữa? Năm 1968, Bác viết Nhưng không ai đoán biết được tôi sẽ sống và phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng mấy tháng, mấy năm nữa? và tới năm 1969, Bác viết Nhưng ai mà đoán biết tôi còn phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân được bao lâu nữa? Như thế, Bác đã xác định thời điểm về với cõi vĩnh hằng khá chính xác từ chỗ còn mấy năm, mấy tháng đến còn mấy tháng, mấy năm rồi không biết được bao lâu nữa? Là người đã thừa hưởng ở truyền thống dân tộc và ở cha mẹ tính khiêm tốn, sự khí khái không muốn làm phiền người khác, trước sau, Bác luôn dặn Đảng ta không được “tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”. Cẩn thận hơn, Bác còn dặn “Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là “hỏa táng… Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành. Một hộp cho miền Bắc. Một hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam. Đồng bào mỗi miền nên chọn một quả đồi mà chôn hộp tro đó”. Năm 1989, Đảng ta đã giải thích rõ việc xây dựng Lăng và giữ gìn thi hài Bác “Thể theo nguyện vọng và tình cảm của nhân dân, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 3 thấy cần thiết phải giữ gìn lâu dài thi hài của Bác để sau này đồng bào cả nước, nhất là đồng bào miền Nam, bạn bè quốc tế có điều kiện tới viếng Bác, thể hiện tình cảm sâu đậm đối với Bác. Chính vì lẽ đó mà chúng ta đã xin phép Bác về điểm này được làm khác với lời Bác dặn”[5]. Từ năm 1967, không báo cáo với Bác, Trung ương Đảng và quân đội đã chọn 3 bác sĩ giỏi, phẩm chất tốt đi Liên Xô học cách bảo quản thi hài. Ngày 2/9/1969, sau khi Hội đồng y khoa kết luận Bác đã qua đời, các chuyên gia Liên Xô và Việt Nam bắt tay ngay vào việc bảo quản thi hài Bác… Năm 1970, Ban Phụ trách xây dựng Bảo tàng Hồ Chí Minh được thành lập để gìn giữ Khu Di tích Phủ Chủ tịch và xây dựng Bảo tàng Hồ Chí Minh. Năm 1975, công trình Lăng Bác được khánh thành. Hôm nay, tại mảnh đất thiêng Ba Đình, Cụm Di tích lịch sử - văn hóa Ba Đình đang mở cửa phục vụ khách tham quan trong nước và quốc tế, với số lượng hàng năm lên tới 4- 5 triệu lượt người[6]. Nhìn những dòng người dài vô tận sáng sáng xếp hàng vào Lăng viếng Bác, thăm Khu Di tích Phủ Chủ tịch và Bảo tàng Hồ Chí Minh, mới thấy ý Đảng, lòng dân đã tạo nên sức mạnh thần kỳ. * * * Năm Bác mất tôi 15 tuổi, đã là Đoàn viên thanh niên, đang học lớp 9 của trường cấp 3 trong huyện. Lịch sử không ngờ lại ưu ái cho tôi trở thành một trong những chứng nhân, là người trong cuộc của quá trình cả nước thực hiện Di chúc Bác Hồ. Chiều thứ 7, từ nơi trọ học về nhà thấy mẹ vừa khóc vừa may băng tang. Bố và chị là đảng viên được đeo băng nửa đen, nửa đỏ, còn cả nhà đều đeo băng đen. Chiếc băng chỉ to bằng hai ngón tay song nặng trĩu trái tim người… bởi nỗi lo chung khôn tả ở mỗi người là Bác mất đi thì ai giải phóng miền Nam? Ai tiếp tục được sự nghiệp của Người? Dần dần được đọc báo, nghe đài, được thầy giáo giảng giải chúng tôi yên tâm rằng Bác mất đi song còn các cộng sự, còn cả một Đảng do Bác sáng lập và rèn luyện, sẽ tiếp tục sự nghiệp của Bác. Tháng 10, được đọc Thư gửi Bác Hồ của Nguyễn Kim càng thấy ấm lòng vì không những sự nghiệp, mà cả di tích của Bác ở Phủ Chủ tịch cũng đang được quan tâm gìn giữ như ngày Bác còn sống. 17 tuổi, tôi lên Hà Nội vào đại học, 18 tuổi được tổng động viên đi bộ đội, cuối năm 1972, đi B và chiến đấu ở trong đó cho tới ngày toàn thắng; năm 1976, được trở lại trường đại học. Năm 1980, tôi tốt nghiệp ra trường xin được việc làm và cũng như bao người chịu cảnh Gạo mốc, bo bo, ngô răng ngựa… của những ngày đói gạo. Thoắt cái đã 45 năm. Ai đó còn chưa hài lòng với thành quả hôm nay, chứ riêng tôi, tôi thấy quả là tuyệt vời. Bởi lẽ, phải từ hoàn cảnh của nước mình, điểm xuất phát của nước mình để đánh giá và chiêm nghiệm. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, xuất phát điểm quá thấp, lại chiến tranh liên miên với giặc ngoại xâm…, đạt được thành quả thế này quả là vĩ đại. Tuy nhiên, chúng ta có thể đạt thành quả lớn hơn, nếu không phạm phải sai lầm trong quản lý kinh tế, kéo dài quá lâu mô hình tập trung, bao cấp, không bị phân tán nguồn lực vì chiến tranh, không bị tham nhũng, lãng phí hoành hành. 45 năm, đọc lại Di chúc Bác Hồ, càng vững tin vào con đường mà Bác và Đảng đã chọn. Bởi lịch sử đã chứng minh, những điều Bác đã tiên liệu là vô cùng chính xác, bởi Di chúc Bác Hồ chính là “Cẩm nang thần kỳ”, vừa tổng kết lịch sử, vừa định hướng tương lai. [1] Những chữ in nghiêng trong bài đều trích từ Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh [2] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t. 4, tr. 64 [3] Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tr. 92 [4] Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, [5] Thông báo của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Việt Nam về một số vấn đề liên quan tới Di chúc và ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh số 151-TB/TƯ ngày 19/8/1989 do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ký. [6] Kết quả phục vụ khách tham quan năm 2012 như sau Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đón lượt người, trong đó có lượt khách nước ngoài. Khu di tích Phủ Chủ tịch đón lượt người, trong đó có lượt khách nước ngoài. Bảo tàng Hồ Chí Minh đón lượt người, trong đó có lượt khách nước ngoài. Theo Báo cáo tổng kết công tác năm 2012 của Ban Chỉ đạo phối hợp hoạt động Cụm di tích lịch sử - văn hóa Ba Đình. Lưu trữ Bảo tàng Hồ Chí Minh. Theo đcsvn - Các hoạt động kỷ niệm 45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ được triển khai trong 3 tháng, từ tháng 9 đến tháng 11 năm nay. Sáng nay tại Hà Nội, Ban Tuyên giáo TƯ đã tổ chức hội nghị trực tuyến tại 63 điểm cầu trên cả nước hướng dẫn triển khai các hoạt động kỷ niệm 45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại hội nghị, Phó trưởng Ban Tuyên giáo TƯ Bùi Thế Đức cho biết, việc tổ chức kỷ niệm nhằm tiếp tục khẳng định giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh, Di chúc thiêng liêng và tấm gương đạo đức của Người. Ông Đức cũng nói thêm, nội dung các hoạt động kỷ niệm 45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần thiết thực, tiết kiệm, tránh hình thức. Đợt tuyên truyền triển khai từ tháng 9 đến tháng 11/2014 gắn với việc thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị khóa 11 về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Đẩy mạnh tuyên truyền trong nhân dân về kết quả 45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phát hiện, biểu dương những điển hình về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Theo đó, việc kỷ niệm sẽ tập trung vào một số nội dung tuyên truyền, giáo dục ôn lại giá trị tư tưởng, chính trị, văn hóa trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, qua đó tiếp tục nâng cao thêm nhận thức và khẳng định giá trị trường tồn của Di chúc; những thành tựu vẻ vang của cách mạng Việt Nam trong 45 năm thực hiện Di chúc; chủ động đấu tranh, bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ lãnh tụ, phê phán những tư tưởng, hành vi không đúng với lời dạy của Người... Các sự kiện kỷ niệm cũng được tổ chức như Chương trình nghệ thuật đặc biệt ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới; tổ chức hội thảo khoa học; xây dựng và chiếu phim tài liệu; tọa đàm giao lưu trên đài phát thanh, truyền hình, báo chí...

45 năm thực hiện di chúc của bác