a di đà phật tiếng hoa là gì

Sự tu hành chứng quả của Phật pháp là dựa vào tự lực, không dựa vào tha lực, duy chỉ có độc nhất trong Tịnh tông và Mật tông thì có pháp môn nhị lực. Nhị lực tức là dựa vào chính mình và dựa vào tha lực. Tuy gọi là nhị lực nhưng trong nhị lực thì vẫn lấy tự lực làm đầu 14. Nam Mô A Di Đà Phật có nghĩa là gì - Kienthuc. Tác giả: kienthuc.net.vn . Đánh giá: 1 ⭐ ( 57259 lượt đánh giá ) Đánh giá cao nhất: 5 ⭐ . Đánh giá thấp nhất: 3 ⭐ . Tóm tắt: Nam Mô A Di Đà Phật là câu niệm Phật cửa miệng được phật tử, người dân thường xuyên nhắc đến Sự kiện thành lập Chi hội Phụ nữ Phật giáo tỉnh Bình Dương mà người đứng đầu chi hội là một vị Ni sư Phó Ban Trị sự GHPG Việt Nam tỉnh làm Chi hội trưởng đã cho thấy GHPGVN đang bị thế tục hóa. Tiếng hát Mỹ Thể, một danh ca nổi bật cùng thời với Lệ Thanh, Hà Thanh – Mỹ Thể ra đi sau ca sĩ Ngọc Lan chẳng bao lâu, để lại bao tiếc thương cho những người yêu nhạc mến thơ, nhất là những ai đã từng ái mộ người ca sĩ tài danh Mỹ Thể vào thập niên 70 với chất giọng luyến, láy tuyệt vời thật điêu Phật A Di Đà sở hữu công đức vô hạn phát sinh từ những việc tốt không biết bao nhiêu kiếp trước. “A Di Đà” có thể dịch là “Ánh Sáng Vô Hạn” do đó Phật A Di Đà thường được gọi là “Đức Phật Ánh Sáng”. Được truyền cảm hứng bởi những lời dạy của model baju batik untuk orang kurus agar terlihat gemuk. Ca DaoTàng kinh các 2022-03-09T105443-0500A Di Đà Phật nghĩa là gì?Đọc khoἀng 2 phύtTrong tiếng Việt, A Di Đà Phật cό 2 nghῖa1. Tên cὐa Phật A Di Đà – vị giάo chὐ cōi Tây phưng Cực lᾳc và là vị Phật được tôn thờ nhiều nhất trong Phật giάo Đᾳi thừa, tượng trưng cho từ bi và trί Câu niệm Phật trong Tịnh Độ Tông – một tông phάi Phật giάo thực hành chὐ yếu ở khu vực Đông từ nguyên, A Di Đà là kί âm từ tiếng Sanskrit Amitābha. Chữ này thành lập từ tiền tố a- không, dịch là vô và mita đo lường, dịch là lượng với phụ tố ābha sάng, dịch là quang. Vὶ vậy, Amitābha dịch là Vô Lượng Quang Phật. Tuy nhiên, Amita – cῦng là thành phần đầu cὐa chữ Amitāyus với ayus đời sống dài, dịch là thọ, cho nên A Di Đà Phật cὸn cό nghῖa là Vô Lượng Thọ Phật.Theo kinh điển Phật giάo Đᾳi Thừa, Phật A Di Đà vốn là một vị vua trong quά khứ, người sau đό đᾶ từ bὀ vưng quốc cὐa mὶnh để trở thành một tu sῖ Phật giάo cό tên là Dharmakara, nghῖa là Kho Chứa Phάp. Được truyền cἀm hứng bởi những lời dᾳy cὐa Phật Lokesvaraja, Phật A Di Đà đᾶ phάt 48 lời thề nguyện, thiết lập cōi Tịnh Độ cό tên gọi là Cực Lᾳc Sukhāvatī nhằm cứu độ tất cἀ chύng sanh. Trong 48 lời nguyện cὐa Phật A Di Đà, lời nguyện thứ 18 cό nêu “Nếu cό chύng sanh nào nghe danh hiệu A Di Đà Phật mà phάt tâm tin tưởng, nguyện sanh về cōi Cực Lᾳc, nhất tâm niệm 10 niệm Nam Mô A Di Đà Phật thὶ sẽ được vᾶng sanh về cōi Cực Lᾳc”. Nam mô là hὶnh thức phiên âm cὐa tiếng Pāli namo Sanskrit namaḥor namas – thάn từ thể hiện sự tôn kίnh, thường đặt trước tên cὐa một đối tượng được sὺng kίnh. Nam Mô A Di Đà Phật namo-mitābhāya hay được rύt gọn thành hai chữ Mô Phật bao hàm у́ nghῖa “Tôi xin thành kίnh đến Đức Phật A Di Đà”.Hiện nay, giới Phật tử xuất gia hay cư sῖ tᾳi gia thường dὺng câu niệm Phật này để chào nhau. Từ lâu, Phật giáo A Di Đà Phật đã được truyền bá rộng rãi và trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân châu Á, đặc biệt là ở những nước có đạo Phật. Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu ý nghĩa A Di Đà Phật là gì và tầm quan trọng của cụm từ này trong Phật giáo và cuộc sống con người nhé!Phật A Di Đà là ai?Ý nghĩa của A Di Đà Phật là gì?Tác dụng của câu nói A Di Đà PhậtLàm thế nào để niệm Nam Mô A Di Đà Phật thành công?Có nên niệm A Di Đà Phật mỗi ngày?Phật A Di Đà hay còn được gọi là Phật Amitabha, là một trong những Phật Thế Tôn được tôn thờ nhiều nhất trong giáo lý Phật giáo. Theo truyền thuyết, Phật A Di Đà đã đạt được giác ngộ và giải thoát khỏi sự khổ đau trong một thế giới khác gọi là Cực Lạc Thiên Đường, nơi mà các chúng sinh được hưởng tận hưởng niềm an lạc và thanh tịnh vô xem là người sáng lập của Phật giáo tục tư, Phật A Di Đà đã truyền bá tinh thần giúp đỡ và cứu rỗi chúng sinh, giúp họ vượt qua những khó khăn và nỗi đau trong cuộc sống, và tìm đến sự thanh tịnh và giải thoát. Với những giá trị tinh thần đó, Phật A Di Đà đã trở thành một biểu tượng quan trọng và được tôn thờ nhiều nhất trong giáo lý Phật nghĩa của A Di Đà Phật là gì?Theo Wikipedia “A-di-đà Phật là đức Phật Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, Vô Ngại Quang, Thanh Tịnh Quang, Giải Thoát Quang, Bất Khả Tư Nghị Quang, Trí Huệ Quang, Siêu Nhật Nguyệt Quang hoặc Tiếp Dẫn đạo sư Vị thầy đạo tiếp đón chúng sinh.A Di Đà Phật mang đến ý nghĩa quan trọng đối với Phật giáo và cuộc sống con người. Với quan niệm về sự giải thoát khỏi sự khổ đau và sinh tử, A Di Đà Phật trở thành nguồn cảm hứng và niềm tin cho chúng sinh trong cuộc lễ và phong tục truyền thống của Phật giáo A Di Đà Phật đang được giữ gìn và phát triển trên khắp thế giới và các di tích, đền đài và nhà chùa được xây dựng để tôn vinh A Di Đà Phật. Việc hiểu và truyền đạt đúng những giá trị và ý nghĩa của A Di Đà Phật là vô cùng quan trọng. Điều này giữ gìn và phát triển những giá trị tinh thần đó cho đến những thế hệ dụng của câu nói A Di Đà PhậtCâu nói A Di Đà Phật được coi là một câu thần chú quan trọng trong Phật giáo và được sử dụng như một công cụ để giúp con người tìm kiếm sự thanh tịnh và giải thoát. Tác dụng của câu nói này được thể hiện qua các điểm sauThứ nhất, câu nói A Di Đà Phật được cho là có tác dụng giúp tâm hồn con người trở nên bình an và thanh tịnh. Khi thực hành câu nói này, người ta tập trung vào sự thanh tịnh và giải thoát và từ đó giải phóng những căng thẳng, lo lắng và áp lực trong cuộc sống. Việc tập trung vào câu nói A Di Đà Phật cũng giúp cho tâm hồn được tập trung và tĩnh tâm, giúp cho con người có thể giải quyết những vấn đề khó khăn trong cuộc sống một cách hiệu quả hai, câu nói A Di Đà Phật còn được cho là có tác dụng giúp con người tránh khỏi những điều xấu xa và tiêu cực trong cuộc sống. Việc tập trung vào sự thanh tịnh và giải thoát cũng giúp cho con người không bị lôi cuốn bởi những cám dỗ và tham vọng của thế gian, và từ đó có thể tránh xa những hành động sai trái và đau cùng, câu nói A Di Đà Phật còn mang đến tác dụng tôn vinh và giữ gìn giáo lý Phật giáo. Việc thực hành câu nói này cũng là một cách để con người tôn vinh và tri ân những đức tính cao đẹp của A Di Đà Phật, đồng thời giúp cho giáo lý Phật giáo được giữ gìn và phát triển trong đời sống hiện thế nào để niệm Nam Mô A Di Đà Phật thành công?Để niệm Nam Mô A Di Đà Phật được hiệu quả và thành công, người tập niệm cần tuân theo một số nguyên tắc cơ bản sau đâyThứ nhất, tập trung tâm trí và tĩnh tâm trước khi bắt đầu niệm. Trước khi bắt đầu niệm, người tập niệm cần phải tập trung tâm trí, loại bỏ mọi suy nghĩ phiền muộn, lo lắng và tìm kiếm sự bình an trong tâm hồn. Nếu tâm trí vẫn còn mơ hồ và phân tâm, niệm A Di Đà Phật sẽ không hiệu hai, niệm với tình yêu và lòng kính trọng đối với A Di Đà Phật. Khi niệm, người tập niệm cần niệm với tình yêu và lòng kính trọng đối với A Di Đà Phật, thể hiện sự tôn trọng và tri ân đối với vị Phật cao quý ba, niệm đều đặn và liên tục. Niệm A Di Đà Phật cần được thực hiện đều đặn và liên tục, không nên bỏ lỡ một ngày nào, để giữ cho tâm hồn luôn được trong sự thanh tịnh và giải tư, niệm với ý thức sâu sắc về sự giải thoát. Khi niệm A Di Đà Phật, người tập niệm cần có ý thức rõ ràng về sự giải thoát và sự thanh tịnh trong tâm hồn. Niệm với ý thức này giúp người tập niệm tập trung vào mục tiêu chính của niệm, giúp cho niệm được hiệu quả cùng, người tập niệm cần có sự kiên trì và nhẫn nại. Niệm A Di Đà Phật là một công việc cần sự kiên trì và nhẫn nại, không thể đạt được thành công ngay lập tức. Người tập niệm cần kiên trì và đam mê với việc niệm để đạt được những kết quả tốt nên niệm A Di Đà Phật mỗi ngày?Việc niệm A Di Đà Phật mỗi ngày là một việc làm có lợi cho tâm hồn và có thể giúp cho người tập niệm đạt được sự an lạc, thanh tịnh trong tâm hồn. Việc niệm mỗi ngày cũng giúp cho người tập niệm tránh xa những suy nghĩ tiêu cực và đẩy lùi những nỗi lo âu trong cuộc nhiên, việc niệm mỗi ngày cần được thực hiện với sự tập trung và đam mê. Nếu niệm một cách cơ hội và không tập trung, sẽ không mang lại hiệu quả và có thể gây ra cảm giác buồn ngủ hoặc chán ra, việc niệm A Di Đà Phật mỗi ngày còn phụ thuộc vào mức độ sự cống hiến và thời gian của từng người. Nếu bạn có thời gian và cảm thấy hứng thú, việc niệm mỗi ngày sẽ giúp cho tâm hồn bạn được thanh tịnh và tiến gần hơn đến sự giải thoát. Tuy nhiên, nếu bạn có công việc bận rộn và không thể dành nhiều thời gian cho việc niệm, bạn có thể niệm trong một thời gian ngắn hơn, nhưng vẫn cần niệm đều đặn và liên tục để đạt được hiệu vậy, việc niệm A Di Đà Phật mỗi ngày là tùy thuộc vào mức độ sự cống hiến và thời gian của từng người. Tuy nhiên việc niệm đều đặn và liên tục sẽ mang lại hiệu quả tốt hơn trong việc giúp cho tâm hồn được thanh tịnh và tiến tới sự giải đạt được hiệu quả tốt nhất trong việc niệm A Di Đà Phật, chúng ta cần tập trung, đam mê và niệm đều đặn. Việc niệm mỗi ngày cũng phụ thuộc vào mức độ sự cống hiến và thời gian của từng người. Trên đây là những thông tin giải đáp về ý nghĩa A Di Đà Phật là gì cũng như tác dụng của việc niệm thần chú mà Hoa Sen Phật. Việc niệm A Di Đà Phật không chỉ giúp cho tâm hồn được thanh tịnh, đạt được sự an lạc và tiến tới sự giải thoát, mà còn giúp cho chúng ta đẩy lùi những suy nghĩ tiêu cực, nỗi lo âu trong cuộc sống. Chúc bạn luôn đạt được sự an lạc và tiến tới sự giải thoát. Nam Mô A Di Đà Phật! “Nam Mô A Di Đà Phật” là câu niệm của những Phật tử thuộc phái Tịnh Độ với ý nghĩa mong Phật A Di Đà tiếp thêm sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn, cách trở. Tuy nhiên còn rất nhiều ý nghĩa khác cũng như những sự tích ly kỳ về Đức Phật A Di Đà. Bài viết hôm nay, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu Phật A Di Đà nhé. Phật A Di Đà là ai? Phật A Di Đà là đức Phật vô lượng thọ vô lượng quang, là một trong những vị Phật trong thần thoại của Phật giáo Đại Thừa. Ngài ngụ ở tinh độ của mình, tới thế giới với vai trò cứu độ. Phật A Di Đà là ai? Theo ghi chép của Đại Kinh A Di Đà, trong kiếp sống trước đây, Ngài là vị tăng mang tên Dharmakara. Ngài nguyện tịnh hóa và trang nghiêm một thế giới để có thể biến thành một trong những Phật độ sạch sẽ, thanh tịnh nhất. Khi tỉnh giác, hoàn thành lời nguyện, Dharmakara sẽ trở thành Phật A Di Đà ngụ tại thế giới Ngài đã tịnh hóa gọi là Cực Lạc. Từ thế giới Ngài đến với chúng ta, xung quanh có các vị bồ tát, chào mừng những người đã khuất để dẫn họ tái sinh ở đất Phật. Trong các văn liệu cổ xưa của Phật giáo Ấn Độ, sự tích Đức Phật A Di Đà được ghi chép cụ thể. Tuy nhiên, tới đầu Công nguyên thì hiệu A Di Đà xuất hiện với vai trò là một phụ Phật tại phương Tây có trong Ngũ phương Phật. Về phẩm chất, Phật A Di Đà tương đối giống với những vị Phật Đại thừa khác. Tuy nhiên, Phật A Di Đà luôn gắn với ánh sáng chiều tà vô cùng rạng rỡ, tỏa sắp vũ trụ mà không thiêu đốt. Đức Phật A Di Đà là ai? Phẩm chất phát quang của Ngài luôn được nhấn mạnh trong văn hóa Đông Á. Sự cứu hộ của Ngài được thể đảm bảo bằng cách gọi tên, khấn danh hiệu “Nam mô a di đà Phật”. Theo kinh điển của Phật giáo Đại Thừa thì Phật A Di Đà là một vị vua từ bỏ vương quốc để trở thành một tu sĩ Phật giáo. Tên gọi của Ngài là Dharmakara, dịch ra mang ý nghĩa “Kho Chứa Pháp”. Phật A Di Đà có thật hay không? Theo lịch sử Phật A Di Đà thì Ngài lần đầu tiên được nhắc tới trong Kinh Vô Lượng Thọ. Giải thích về nguồn gốc cũng như niềm tin vào Ngài trích trong Bách khoa toàn thư Việt cho rằng đức tin vào Ngài là sản phẩm của những học giả Phật giáo ra đời vào Thế kỷ 1 TCN. Đây chính là lý do không có căn cứ chứng minh Phật A Di Đà có thật không. Phật A Di Đà có thật hay không? Tuy nhiên, những lý luận này chỉ dựa vào khảo cổ của những nhà học giả. Có không ít học giả truyền thống xem kinh điển Đại Thừa từ những bản đầu tiên của Prajnaparamita cũng như bản có liên quan tới Akshobhya. Một số kinh điển của Đại Thừa được dịch những nhà sư Gandhara đã tới Trung Quốc. Bản dịch của nhà sư này sang tiếng Trung được thực hiện tại Luoyang từ 178 – 1189 CE. Do đáo, đa phần các học giả đều nghĩ Đại thừa sớm nhất hầu hết được sáng tác tại miền nam Ấn độ sau đó viết bổ sung kinh sách tạo phía Bắc. Tuy nhiên, giả định về sự phát triển rộng khắp và được chấp nhận về niềm tin của kinh điển Đại Thừa từ xa xưa cũng không hoàn toàn vô lý. Việc Phật A Di Đà có thật không chưa có cơ sở nào để kiểm chứng. Để trả lời câu hỏi này thì còn tùy thuộc vào nhân duyên của mỗi người để chọn pháp môn phù hợp. Trong Phật Giáo, có một vị Phật Tổ được kiểm chứng là có thật trên cõi đời này. Người ấy không ai khác chính là Phật Thích Ca Mâu Ni hay Phật Tổ Như Lai. Tìm hiểu thêm về người ngay tại đây! Sự tích cuộc đời Phật A Di Đà Trong kinh Đại A Di Đà, thời Đức Phật Tự Tại Vương có vị quốc vương tên Kiều Thi Ca. Vua nghe Phật thuyết pháp liền bỏ vương quốc để xuất gia với hiệu Pháp Tạng. Ngài lễ Phật và quỳ cầu Phật chứng minh cùng 48 lời nguyện. Nguyện lực này về sau trở thành Phật hiệu A Di Đà. Sự tích về cuộc đời Phật A Di Đà Theo kinh Bi Hoa, cuộc đời vua Vô Tránh Niệm có đại thần Bảo Hải. Vị ngày có người con tên Bảo Tạng, sau khi xuất gia lấy hiệu Bảo Tạng như Lai. Một hôm, sau khi nghe Phật thuyết pháp, vua Tránh Niệm liền muốn cúng dưỡng món ăn và y phục cho Đức Phật cũng như đại chúng trong thời gian 3 tháng. Đai Thần Bảo Hải có lời khuyên vua nên phát tâm bồ đề. Vua Tránh Niệm nguyện sau này khi trở thành Phật sẽ làm giáo chủ cảnh giới thanh tịnh để giáo hóa chúng sanh. Sau khi vua phát nguyện xong, Bảo Tạng Như Lai thọ ký cho vua sau trở thành Phật hiệu là A Di Đà, nước của Ngài sẽ là cõi Cực Lạc Tây Phương. Còn đại thần Bảo Hải sau thành Phật Thích Ca Mâu Ni. Phật A Di Đà trong Kinh Phật đã được ca ngợi lần đầu tiên trong Kinh Vô Lượng Thọ. Theo Đức Phật Thích ca, muốn được giải thoát hoàn toàn thì có tới 8 vạn 4 ngàn con đường. Trong những con đường đó, con đường của Phật A Di Đà là ngắn nhất để thành Phật. Thêm vào đó, Phật Thích Ca cũng nhấn mạnh con đường của Đức phật A Di Đà là tồn tại duy nhất thêm 100 năm sau khi mọi con đường thành đạo đã bị quên lãng tới hết thời mạt pháp. Ngày vía Phật A Di Đà diễn ra vào ngày 17 tháng 11 âm lịch hàng năm. Tới ngày này, Phật tử các nơi làm lễ vía Ngài. Tới ngày này nếu quý vị không thể đi chùa có thể làm mâm cúng tại nhà đều được. Nam mô di đà phật là gì? Nam mô A Di Đà Phật là gì? Câu niệm Phật này ai cũng biết nhưng không phải ai cũng hiểu được Nam mô A Di Đà Phật nghĩa là gì. Câu niệm Phật này được hiểu là “Quy uy, đoạn ác, tụ thiện, tụ tinh nghiệp“. A Di Đà là vô thượng, vô lượng giác cũng như chí cực và đại thừa. A là 10 phương, đời tam thế Phật. Di là tất cả các Bồ Tát. Đà là 8 vạn chư kinh giáo Phật. Nam mô di đà phật là gì? Chữ A Di Đà không chỉ là danh xưng Phật Pháp Tạng mà còn nhắc người tụng niệm nhận thức rõ thân phận của mình. Cần dựa vào thần lực của Phật để chiến thắng sự yếu hèn của bản thân, đứng vững tới khi chết. Người tin vào Tịnh độ chủ yếu tới từ những nước Đông Á. Trong khi đó, Nam Á và Ấn độ thì tin rằng chỉ có bản thân mình với giúp được mình. Rất nhiều người không theo Phật giáo không biết được điểm khác nhau giữa Phật A Di Đà và Phật Thích Ca. Nếu quý vị chưa rõ, hãy ấn xem ngay tại đây! Cách thờ Phật A Di Đà tại nhà Ở Việt Nam, cách thờ Phật A Di Đà tại nhà giống như các vị Phật khác. Có thể thờ chung bàn thờ Phật chung với bàn thờ gia tiên. Tuy nhiên bàn thờ Phật đặt cao hơn bàn thờ gia tiên. Vị trí đặt bàn thờ Trung tâm ngôi nhà, nên đặt giữa phòng khách. Nếu diện tích nhỏ thì nên đặt ở phòng riêng biệt. Hướng bàn thờ Bàn thờ Phật A Di Đà cần hướng ra cửa chính của ngôi nhà. Theo một số chuyên gia phong thủy thì các gia đình nên đặt bàn thờ tại hướng Tây Bắc của ngôi nhà. Đây là hướng tượng trưng cho trời, mang ý nghĩa Tây Thiên Cực Lạc. Cách thờ Phật A Di Đà tại nhà Nếu quý vị chưa có bàn thờ Phật hay đang muốn tham khảo các mẫu và giá. Ấn vào đây để xem các mẫu bàn thờ Phật đẹp, cung kính trang nghiêm nhất tại cửa hàng chúng tôi. Trên đây là toàn bộ thông tin liên quan tới Phật A Di Đà mà chúng tôi muốn chia sẻ với bạn đọc. Vào ngày vía Phật A Di Đà, hãy cầu xin để gia đình được mạnh khỏe, hạnh phúc. Hãy cùng hướng về Ngài để làm điều phước, thiện, nguyện cầu thế giới không còn khổ đau, chia rẽ. Đăng nhập Trong Phật giáo Đại thừa, đặc biệt là những Phật tử theo trường phái Tịnh độ thì Kinh A Di Đà là bản kinh vô cùng quan trọng. Bài kinh này được hàng triệu Phật tử nhiệt thành thường xuyên truyền tụng trong các thời khóa tu tập. Hôm nay, Hoa Sen Phật xin tổng hợp những thông tin hữu ích về kinh A Di Đà để gửi đến quý độc gốc kinh A Di ĐàÝ nghĩa của kinh A Di ĐàKinh Phật thuyết A Di ĐàKỳ viên đại hộiY báo chánh báoY báo trang nghiêmChánh báo vô lượng thù thắngNhơn hạnh vãng sanhSáu phương Phật đồng khuyên tinThuyết kinh bất khóNghi thức tụng kinh A Di ĐàNghi thức sám hối trước khi tụng kinhNghi thức tụng kinh10 điều tâm niệm sau khi thực hiện xong nghi thức tụng kinh A Di ĐàKinh A Di Đà tiếng Phạn Amitabha sutra là một trong 3 bài kinh quan trọng nhất của Tịnh độ tông. Nội dung kinh mô tả về cõi Tây phương cực lạc tiếng Phạn Sukhavati, vùng đất thanh tịnh của Phật A Di Đà tiếng Phạn Amitabha Buddha. Hai bài kinh khác trong bộ này là kinh Quán Vô Lượng Thọ và kinh Vô Lượng bản này có ảnh hưởng lớn trong Phật giáo Đông Á bao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam. Nó cũng được tôn kính bởi Jōdo Shinshū, một trong những tổ chức Phật giáo lớn nhất tại Nhật A Di Đà ra đời trong thời kỳ phát triển của tư tưởng Đại thừa. Được dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán trong thời Diêu Tần bởi Pháp sư Cưu Ma La Thập sinh năm 344, mất năm 413, người gốc Ấn Độ và là dịch giả Phật giáo nổi tiếng chuyên dịch kinh sách từ văn hệ tiếng Phạn ra tiếng kinh mà Phật tử Việt Nam thường tụng là bản dịch của Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, Vạn Phật Thánh Thành dịch từ bản tiếng Hán của Ngài Cưu Ma La nghĩa của kinh A Di ĐàPhần lớn nội dung kinh A Di Đà mô tả buổi nói chuyện giữa Phật Thích Ca và Ngài Xá Lợi Phất về vùng đất Tây phương với nhiều điều kỳ diệu không thể tìm thấy ở bất cứ đâu trên trái đất này. Từ chim, cỏ, hoa lá cho đến những sinh vật cư ngụ ở đó đều biểu lộ sự vi diệu của giáo pháp. Văn bản cũng mô tả những gì Phật tử phải làm để được tái sinh ở số người cho rằng, kinh A Di Đà không phải do Phật Thích Ca nói mà lại ghi là “Kinh Phật Thuyết A Di Đà”! Họ nói rằng đây chỉ là một trong nhiều bài kinh “phương tiện” nhằm “thu hút” Phật tử với mong ước thoát khỏi cảnh khổ ở hiện tại mà phát tâm tu hành để tái sinh về cảnh giới cực lạc, an vui tràn đầy hạnh nhiên, một số khác tin rằng kinh A Di Đà chuyển tải nội dung sâu xa hơn rất nhiều với những gì mà người thường có thể nghĩ đến, và đương nhiên họ tin rằng bài kinh này do Phật Thích Ca thuyết giảng. Nhận ra ý nghĩa cao thâm vi diệu này, Hòa Thượng Thích Trí Quảng chia sẻ“Niệm Phật không phải là kêu tên Phật. Đa số đều lầm tưởng kêu tên Phật là niệm Phật. Niệm Phật hoàn toàn khác với kêu tên Phật. Suốt ngày chúng ta đọc Nam-mô A Di Đà Phật là kêu tên Phật để vãng sanh thì không thể nào vãng sanh được.”Niệm Phật là chỉ nơi tâm mà hành trì, chứ không qua trung gian phương tiện giúp chúng ta đạt đến nhất tâm bất loạn. Cõi tịnh độ của Phật A Di Đà được ẩn dụ cho sự vô thủy vô chung. Còn gọi là vô lượng thọ, vô lượng quang, hay pháp giới tạng chính xác hơn, nếu chúng ta mô tả một vị Phật dựa trên căn bản giác ngộ viên mãn, chúng ta sẽ đi đến một lý tưởng về Phật nghĩa làVô lượng quang biểu tượng của trí tuệ giải thoát Phật trí.Vô lượng thọ biểu tượng của đại định tâm giải thoát, ở ngoài các vọng tưởng phân quy lại, ý nghĩa của kinh A Di Đà và toàn bộ tông chỉ của pháp môn niệm Phật là hướng tâm về sự tinh khiết của nguyên thủy. Không sinh, không diệt, không giới hạn, không phân biệt…bản chất nguyên thủy của tất cả chúng sinh hay còn được gọi là Phật tính, Niết nhận ra Phật tính rồi thì nơi mình ở sẽ là cực lạc – kim cương, châu báu, cảnh đẹp… tất cả chỉ mang tính biểu tượng đại diện cho “vẻ đẹp”, “giàu sang”…mà phàm phu thường ngộ nhận là hạnh phúc để họ dễ hình dung mà nương theo tu Phật thuyết A Di Đà Hán dịch Dao Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Việt dịch Ban Phiên Dịch Việt Ngữ, Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, Vạn Phật Thánh ThànhKỳ viên đại hộiNhư vậy tôi nghe Một thuở nọ, Phật ở nước Xá Vệ, vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, cùng với đại Tỳ-kheo một nghìn hai trăm năm mươi vị cùng ở chung, đều là bậc đại A La Hán, mọi người đều biết là Trưởng lão Xá-lợi-phất, Ma-ha Mục-kiền-liên, Ma-ha-Ca-diếp, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ma-ha Câu-hy-la, Ly-bà-đa, Châu-lợi-bàn-đà-dà, Nan-đà, A Nan-đà, La-hầu-la, Kiều-phạm-ba-đề, Tân-đầu-Lô phả-la-đọa, Ca-lưu-đà-ni, Ma-ha Kiếp-tân-na, Bạc-câu-la, A-nậu-lâu-đà, và các vị đệ tử lớn như vậy nhiều nữa; cùng các vị Bồ-tát Ma-ha-tát như Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, A-dật-đa Bồ-tát, Càn-đà-ha-đề Bồ-tát, Thường Tinh Tấn Bồ tát và các vị Bồ-tát lớn nhiều như thế nữa; cùng với Thích Đề Hoàn Nhơn..v..v.. vô lượng chư thiên đại chúng đồng câu báo chánh báoBấy giờ đức Phật bảo Trưởng lão Xá-lợi-phất “Từ đây qua phương Tây cách mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực Lạc, nước ấy có Phật hiệu là A Di Đà hiện đang thuyết pháp ở báo trang nghiêmNày Xá-lợi-phất! Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc?Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui, cho nên gọi là Cực này Xá-lợi-phất! Cõi nước Cực Lạc có bảy lớp lan thuẩn, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây đều bằng bốn thứ báu vây quanh giáp vòng, cho nên nước ấy tên là Cực này Xá-lợi-phất! Cõi nước Cực Lạc có ao bảy báu, nước tám công đức tràn đầy trong đó. Đáy ao toàn trải cát bằng vàng. Thềm đường bốn phía do vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Bên trên có lầu có các, cũng dùng đủ loại vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não để trang sen trong ao lớn như bánh xe, màu xanh có ánh sáng xanh, màu vàng có ánh sáng vàng, màu đỏ có ánh sáng đỏ, màu trắng có ánh sánh trắng, thơm ngát vi Xá-lợi-phất, cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế!Lại này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia, thường trổi nhạc trời, vàng ròng làm đất, ngày đêm sáu thời, mưa hoa Mạn-đà-la cõi trời. Chúng sanh ở cõi ấy, cứ mỗi sáng sớm, thường dùng đãy y, đựng các hoa đẹp, đem cúng dường mười vạn ức Phật ở phương khác, vừa đến giờ ăn, trở về nước mình, ăn cơm, kinh Xá-lợi-phất, cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế! Lại này nữa Xá-lợi-phất, cõi nước kia thường có các loài chim mầu sắc kỳ diệu, như Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh Võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cộng thứ chim này, ngày đêm sáu thời, hót lên tiếng hòa nhã, tiếng ấy diễn xướng năm căn, năm lực, bảy Bồ-đề phần, tám thánh đạo phần. Các pháp như thế ấy, chúng sanh ở nước kia nghe âm thanh này rồi, thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!Này Xá-lợi-phất, ông chớ cho rằng chim này thiệt là do tội báo sanh ra. Tại sao thế? Vì cõi nước của Phật kia không có ba ác đạo. Này Xá-lợi-phất, cõi nước của Phật kia còn không có tên của ác đạo, huống chi lại có thật. Các thứ chim ấy đều là do Phật A Di Đà muốn cho tiếng Pháp âm truyền khắp mà biến hóa ra như Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia, gió nhẹ lay động các hàng cây báu và các lưới báu, phát ra âm thanh vi diệu, giống như trăm nghìn thứ âm nhạc đồng trỗi một lượt. Ai nghe tiếng này rồi, tự nhiên đều sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia thành tựu công đức trang nghiêm như báo vô lượng thù thắngNày Xá-lợi-phất, ý ông nghĩ sao? Tại sao Đức Phật kia có tên là A Di Đà? Này Xá-lợi-phất, Đức Phật kia có ánh sáng vô lượng, chiếu suốt mười phương cõi nước không bị chướng ngại, cho nên có tên là A Di này Xá-lợi-phất, mạng sống của Phật kia và nhân dân của Ngài, vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, cho nên có tên là A Di Đà. Này Xá-lợi-phất, Phật A Di Đà thành Phật đến nay đã mười kiếp. Lại này Xá-lợi-phất, Đức Phật kia có vô lượng vô biên chúng đệ tử Thanh Văn đều là bực đại A-la-hán, không thể tính đếm mà biết được, các chúng Bồ-tát cũng nhiều như Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia thành tựu công đức trang nghiêm như thế! Lại này Xá-lợi-phất, cõi nước Cực Lạc, chúng sanh sanh về đều là bực A-bệ-bạt-trí. Trong đó có nhiều vị Nhất sanh bổ xứ. Số đó nhiều đến nỗi không thể tính đếm mà biết được, chỉ có dùng số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ để Xá-lợi-phất, chúng sanh nghe được những điều này, phải nên phát nguyện, nguyện sanh về nước kia. Tại sao thế? Vì được ở cùng một chỗ với các bậc Thượng thiện hạnh vãng sanhNày Xá-lợi-phất, không nên cho rằng có chút ít nhơn duyên phước đức căn lành mà được sanh về nước kia Xá-lợi-phất, nếu có hàng thiện nam thiện nữ nào nghe nói về Phật A Di Đà rồi chấp trì danh hiệu Ngài, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bẩy ngày, nhất tâm bất loạn. Người ấy khi lâm chung thấy Phật A Di Đà cùng các Thánh chúng hiện ra trước mặt. Khi chết người ấy tâm không điên đảo, liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Xá-lợi-phất, ta thấy những điều lợi ấy nên mới nói như vậy. Nếu có chúng sinh nào nghe ta nói đây, phải nên phát nguyện sanh về nước phương Phật đồng khuyên tinNày Xá-lợi-phất, như ta hôm nay ngợi khen lợi ích về công đức không thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà. Ở phương Đông cũng có Phật A Súc Bệ, Phật Tu Di Tướng, Phật Đại Tu Di, Phật Tu Di Quang, Phật Diệu như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy Chúng sanh các ngươi phải nên tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và “Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm” Xá-lợi-phất, ở thế giới phương Nam có Phật Nhật Nguyệt Đăng, Phật Danh Văn Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tu Di Đăng, Phật Vô Lượng Tinh Tấn. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và “Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm” Xá-lợi-phất, ở thế giới phương Tây có Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Tướng, Phật Đại Quang, Phật Đại Minh, Phật Bảo Tướng, Phật Tịnh Quang. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và “Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm” Xá-lợi-phất, ở thế giới phương Bắc có Phật Diệm Kiên, Phật Tối Thắng Âm, Phật Nan Trở, Phật Nhật Sanh, Phật Võng Minh. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và “Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm” Xá-lợi-phất, thế giới phương Dưới có Phật Sư Tử, Phật Danh Văn, Phật Danh Quang, Phật Đạt Ma, Phật Pháp Tràng, Phật Trì Pháp. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn, và “Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm” Xá-lợi-phất, ở thế giới phương Trên có Phật Phạm Âm, Phật Tú Vương, Phật Hương Thượng, Phật Hương Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, Phật Ta La Thọ Vương, Phật Bảo Hoa Đức, Phật Kiến Nhất Thiết Nghĩa, Phật Tu Di như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn, và “Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm” Xá-lợi-phất, ý của ông nghĩ sao? Tại sao gọi là “Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm”? Này Xá-lợi-phất, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào nghe Kinh này mà thọ trì, và nghe được danh hiệu của chư Phật, thì những thiện nam thiện nữ ấy đều được tất cả chư Phật hộ niệm cho và đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên này Xá-lợi-phất, các ông hãy nên tin nhận lời ta và lời chư Phật Xá-lợi-phất, nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về nước của Phật A Di Đà thì những người đó đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ở nước Phật kia, những người này hoặc đã sanh, hoặc đang sanh về, hoặc sẽ sanh. Cho nên này Xá-lợi-phất, các thiện nam tử thiện nữ nhân, nếu ai có lòng tin hãy nên phát nguyện sanh về cõi nước kinh bất khóNày Xá-lợi-phất, như ta hôm nay khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của chư Phật, các Đức Phật kia cũng ngợi khen công đức không thể nghĩ bàn của ta và nói như thế nầyĐức Phật Thích Ca Mâu Ni đã làm được những việc rất khó làm và ít có; ở trong cõi nước Ta Bà, trong đời ác năm trược Kiếp trược, Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược, Mạng trược được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Ngài giảng cho các chúng sanh nghe pháp tất cả thế gian khó tin Xá-lợi-phất, nên biết ta ở đời ác năm trược làm việc khó làm này, được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nói cho tất cả thế gian pháp khó tin này, thật là rất khó!Phật nói Kinh này rồi, ngài Xá-lợi-phất và các Tỳ-kheo, tất cả người, trời, A-tu-la… ở thế gian nghe Phật nói rồi đều hoan hỉ tin nhận, lễ Phật mà lui thúc Kinh Phật Thuyết A Di thức tụng kinh A Di ĐàNghi thức sám hối trước khi tụng kinhTrước khi tụng kinh thì Phật tử dùng ba nghiệp thân khẩu ý, thanh tịnh mà tụng kinh, thời phước đức vô lượng, nên trước khi tụng kinh cần phải sám hối. Sám hối tức là làm cho ba nghiệp thanh mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Chư Phật. [1 lạy] Nam mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Tôn Pháp. [1 lạy] Nam mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Hiền Thánh Tăng. [1 lạy][Quỳ xuống, tay cầm hương cúng dường phát nguyện]Nguyện mây hương mầu này Khắp cùng mười phương cõi Cúng dường tất cả Phật Tôn Pháp, các Bồ Tát, Vô biên chúng Thanh Văn Và cả thảy Thánh Hiền Duyên khởi đài sáng chói Trùm đến vô biên cõi, Khắp xông các chúng sinh Đều phát lòng Bồ Đề, Xa lìa những nghiệp vọng Trọn nên đạo vô thượng.[Cắm hương, lạy 1 lạy][Đứng chắp tay, xướng]Sắc thân Như Lai đẹp Trong đời không ai bằng Không sánh, chẳng nghĩ bàn Nên nay con đảnh lễ. Sắc thân Phật vô tận Trí huệ Phật cũng thế, Tất cả pháp thường trú Cho nên con về nương. Sức trí lớn nguyện lớn Khắp độ chúng quần sanh, Khiến bỏ thân nóng khổ Sanh kia nước mát vui. Con nay sạch ba nghiệp Quy y và lễ tán Nguyện cùng các chúng sanh Đồng sanh nước An Lạc. Án phạ nhựt ra vật [7 lần].Chí tâm đảnh lễThường tịch quang tịnh độ A Di Đà Như Lai Pháp thân mầu thanh tịnh Khắp pháp giới chư Phật. [1 lạy]Chí tâm đảnh lễThật báo trang nghiêm độ A Di Đà Như Lai Thân tướng hải vi trần Khắp pháp giới chư Phật. [1 lạy]Chí tâm đảnh lễPhương tiện thánh cư độ A Di Đà Như Lai Thân trang nghiêm giải thoát Khắp pháp giới chư Phật. [1 lạy]Chí tâm đảnh lễCõi An Lạc phương Tây A Di Đà Như Lai Thân căn giới Đại Thừa Khắp pháp giới chư Phật. [1 lạy]Chí tâm đảnh lễCõi An Lạc phương Tây A Di Đà Như Lai Thân hóa đến mười phương Khắp pháp giới chư Phật. [1 lạy]Chí tâm đảnh lễCõi An Lạc phương Tây Giáo hạnh lý ba kinh Tột nói bày y chánh Khắp pháp giới Tôn Pháp. [1 lạy]Chí tâm đảnh lễCõi An Lạc phương Tây Quán Thế Aâm Bồ Tát Thân tử kim muôn ức Khắp pháp giới Bồ Tát. [1 lạy]Chí tâm đảnh lễCõi An Lạc phương Tây Đại Thế Chí Bồ tát Thân trí sáng vô biên Khắp pháp giới Bồ Tát. [1 lạy]Chí tâm đảnh lễCõi An Lạc phương Tây Thanh tịnh đại hải chúng Thân hai nghiêm Phước, Trí Khắp pháp giới Thánh Chúng. [1 lạy][Đứng chắp tay, nguyện]Con nay khắp vì bốn ơn ba cõi cùng chúng sanh trong pháp giới, đều nguyện dứt trừ ba chướng nên qui mạng sám hối. [1 lạy, qùy và chắp tay sám hối]Chí tâm sám hốiĐệ tử … và chúng sanh trong pháp giới, từ đời vô thỉ nhẫn đến ngày nay, bị vô minh che đậy nên điên đảo mê lầm, lại do sáu căn ba nghiệp quen theo pháp chẳng lành, rộng phạm mười điều dữ cùng năm tội vô gián và tất cả các tội khác, nhiều vô lượng vô biên, nói không thể phương các đức Phật thường ở trong đời, tiếng pháp không dứt, hương mầu đầy lấp, pháp vị ngập tràn, phóng ánh sáng sạch trong, chiếu soi tất cả. Lý mầu thường trụ đầy dẫy hư từ vô thỉ đến nay, sáu căn che mù, ba nghiệp tối tăm, chẳng thấy chẳng nghe, chẳng hay chẳng biết, vì nhơn duyên đó trôi mãi trong vòng sanh tử, trải qua các đường dữ, trăm nghìn muôn kiếp trọn không lúc nào ra rằng Đức Tỳ Lô Giá La thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường Tịch Quang, cho nên phải biết cảø thảy các pháp đều là Phật pháp, mà con không rõ, lại theo giòng vô minh vì thế trong trí Bồ Đề mà thấy không thanh tịnh, trong cảnh giải thoát mà sanh ràng mới tỏ ngộ, nay mới chừa bỏ, ăn năn phụng đối trước các đức Phật và A Di Đà Thế Tôn mà phát lồ sám hối, làm cho đệ tử cùng pháp giới chúng sanh, tất cả tội nặng do ba nghiệp sáu căn, gây tạo từ vô thỉ, hoặc hiện tại cùng vị lai, chính mình tự gây tạo hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo mà vui theo, hoặc nhớ hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi hoặc chẳng nghi, hoặc che giấu hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt ráo thanh tử sám hối rồi, sáu căn cùng ba nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu tập cũng trọn thanh tịnh, thảy đều hồi hướng dùng trang nghiêm tịnh độ, khắp với chúng sinh, đồng sanh về nước An đức A Di Đà Phật thường đến hộ trì, làm cho căn lành của đệ tử hiện tiền tăng tấn, chẳng mất nhân duyên Tịnh độ, đến giờ lâm chung, thân an lành, niệm chánh vững vàng, xem nghe đều rõ ràng, tận mặt thấy đức A Di Đà cùng các Thánh Chúng, tay cầm đài hoa tiếp dẫn đệ tử, trong khoảnh sát na sanh ra trước Phật, đủ đạo hạnh Bồ Tát, rộng độ khắp chúng sanh đồng thành Phật tử sám hối phát nguyện rồi quy mạng đảnh lễ Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, đại từ đại bi, A Di Đà Như Lai, biến pháp giới Tam Bảo. [1 lạy] [Lạy xong bắt đầu nghi thức tụng kinh.]Nghi thức tụng kinhBài tán lư hươngLư hương vừa ngút chiên đàn Khói thơm ngào ngạt muông ngàn cõi xa Lòng con kính ngưỡng thiết tha Ngửa mong chư Phật thương mà chứng minh. Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát Ma Ha Tát. [3 lần]Chơn ngôn tịnh pháp giớiÁn Lam [7 lần]Chơn ngôn tịnh ba nghiệpTu rị Tu rị ma ha Tu rị Tu rị ta bà ha. [3 lần]Chơn ngôn phổ cúng dườngÁn nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng. [3 lần]Bài văn phát nguyệnNam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo [3 lần] Lạy đấng tam giới tôn Quy mạng mười phương Phật Nay con phát nguyện lớn Trì tụng Kinh A Di Đà Trên đền bốn ơn nặng Dưới cưú khổ tam đồ Nếu có ai thấy nghe Đều phát Bồ đề tâm Khi mãn báo thân này Sanh qua cõi Cực lạc. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật [3 lần]Bài kệ khai kinh A Di ĐàPhật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Nay con nghe thấy chuyên trì tụng, Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu. Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật, Bồ Tát Ma Ha tát [3 lần]Sau khi đọc bài kệ khai kinh thì quý Phật tử bắt đầu tụng bài kinh Phật thuyết A Di Đà đã được chia sẻ bên khuyết chơn ngônNam mô tam mãn đa một đà nẫm, a bát ra đế, yết đa chiết, chiết nại di. Aùn, kê di kê di, đát tháp cát tháp nẫm, mạt ngõa sơn đính, bát ra đeá, ô đát ma đát ma, đát tháp cát tháp nẫm, mạt ngõa hồng phấn tóa ha [7 lần]Nam mô Hoa-Tạng Giáo Chủ Tỳ-Lô Giá-Na Phật [3 lần]Bồ khuyết tâm kinhMa-Ha Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm KinhQuán-Tự-Tại Bồ Tát hành thâm Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhứt thiết khổ Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như Thị chư pháp không tướng bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô vô sở đắc cố, Bồ Đề tát đỏa y Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa cố, đắc a-nậu đa-la tam-miệu tam bồ tri Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng-đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thật bất thuyết Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa chú. Tức thuyết chú viết“Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la- tăng yếr-đế, bồ đề tát-bà-ha”. [3 lần]Vãng sanh quyết định chơn ngônNam mô A Di đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ, a di rị đa, tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, già di nị già già na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. [3 lần]Khể thủ Tây Phương An Lạc quốcTiếp dẫn chúng sanh đại đạo sưNgã kim phát nguyện nguyện vãng sanhDuy nguyện từ bi ai nhiếp kim phổ vị tứ ân tam hữu, cập pháp giới chúng sanh cầu ư chư Phật, nhứt thừa vô thượng bồ đề đạo cố, chuyên tâm trì niệm A Di Đà Phật vạn đức hồng danh kỳ sanh Tịnh Độ. Duy nguyện Từ phụ A Di Đà Phật ai lân nhiếp thọ từ bi gia Di Đà thân kim sắcTướng hảo quang minh vô đẳng luân,Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu-Di,Hám mục trừng thanh tứ đại hải,Quang Trung hóa Phật vô số ức,Hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên,Tứ thập bát nguyện độ chúng sinhCửu phẩm hàm linh đăng bỉ Mô Tây phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật [niệm 10, 20, 30 câu, tùy ý]Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát [10 niệm]Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát [10 niệm]Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát [10 niệm]Nam mô Thanh-Tịnh Đại-Hải-Chúng Bồ Tát. [10 niệm]Phúng kinh công đức thù thắng hạnh,Vô biên thắng phước giai hồi hướng,Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh,Tốc vãng vô lượng quang Phật tiêu tam chướng trừ phiền não,Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu,Phổ nguyện tội chướng tất tiêu thế thường hành Bồ tát sanh Tây phương Tịnh Độ trung,Cửu phẩm Liên hoa vi phụ mẫu,Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,Bất thối Bồ tát vi bạn dĩ thử công đức,Phổ cập ư nhất thiết,Ngã đẳng dữ chúng sanhGiai cọng thành Phật quy yTự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm [1 lạy]Tự quy Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải [1 lạy]Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại. [1 lạy]Hồi hướngNguyện đem công đức này, Hướng về khắp tất cả. Đệ tử và chúng sinh, Đều trọn thành Phật điều tâm niệm sau khi thực hiện xong nghi thức tụng kinh A Di ĐàNghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng khinh thường kiêu tiếp đừng cầu lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo người thì đừng mong tất cả đều thuận theo ý mình, vì thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có ý mưu lợi đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân quả chưa vậy Đức Phật dạyLấy bệnh khổ làm thuốc thầnLấy hoạn nạn làm giải thoátLấy khúc mắc làm thú vịLấy ma quân làm bạn đạoLấy khó khăn làm thích thúLấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡLấy người chống đối làm nơi gia duCoi thi ân như đôi dép bỏLây sự xả lợi làm vinh hoaLấy oan ức làm cửa ngõ đạo chấp thuận trở ngại thì thông suốt, mà mong cầu thông suốt thì sẽ bị trở ngại. Đức Thế Tôn thực hiện tuệ giác Bồ đề ngay trong sự trở ngại, như Ương-Quật hành hung, Đề-Bà quấy phá, mà Ngài giáo hóa cho thành đạo cả. Như vậy há không phải chính sự chống đối lại làm sự thuận lợi và sự phá hoại laị làm sự tác thành cho ta?Ngày nay, những người học đạo, trước hết không dấn mình vào trong mọi sự trởi ngại, nên khi trở ngại áp đến thì không thể ứng phó. Chánh pháp chí thượng vì vậy mất hết, đáng tiếc đáng hận biết ngần nào!Hoa Sen Phật – Tham khảo Thư Viện Hoa SenẢnh Bài 01 Yếu nghĩa của Nam mô A-di-đà PhậtBài 02 Ý nghĩa niệm “Nam mô A Di Đà Phật”Bài 03 Ý nghĩa của 6 chữ Nam mô A di đà PhậtBài 01 Yếu nghĩa của Nam mô A-di-đà PhậtA-di-đà là phiên âm chữ Amita, tiếng Sanskrit, dạng viết tắt của hai chữ Amitàbha có nghĩa là “Vô Lượng Quang” – “ánh sáng vô lượng” và Amitàyus có nghĩa là “Vô Lượng Thọ” – “thọ mệnh vô lượng”. ây là tên một vị Phật quan trọng được tôn thờ nhiều nhất trong ại thừa, giáo chủ cõi Tây phương Cực Lạc, tiếng Sanskrit là Sukhàvati, và được nhân gian tin thờ sớm nhất trong lịch sử Phật giáo, vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau công nguyên 1.Phật tử theo Tịnh-ộ tông đã tin thờ lan rộng nước Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam, coi ức A-di-đà là biểu tượng cho Từ Bi và Trí Huệ. Người tu Tịnh-ộ tông thường thờ tượng A-di-đà Tam Tôn, ở giữa là Phật Di à, bên phải là ại Thế Chí Bồ Tát, bên trái là Quán Thế Âm Bồ A-di-đà Phật! Sáu chữ Hồng Danh xưng niệm Phật hiệu đã trở thành câu niệm Phật quen thuộc và phổ biến rất rộng rãi trong giới Phật tử xuất gia cũng như cư sĩ tại gia. Mức độ thông dụng trong sinh hoạt hàng ngày chứng tỏ lòng tín niệm của Phật tử thể hiện ở câu chào khi gặp nhau gồm có bốn chữ A-di-đà Phật!Về mặt giáo lý, đây là pháp trì danh niệm Phật trong Tịnh-ộ tông được tín hành nhiều nhất, ngắn gọn dễ dàng tu tập nhất , thích hợp với tất cả mọi tầng lớp tín đồ không phân biệt thượng, trung hay hạ căn, trí huệ cao hay thấp, nghiệp chướng nặng hay nhẹ, chỉ cần hành giả trì danh nhất tâm tín nguyện, không thối chuyển cho đến khi mệnh chung sẽ được vãng sanh, Phật A-di-đà và thánh chúng tiếp dẫn về Tây phương Cực biến lan rộng như thế, thông dụng thích hợp với mọi căn duyên chư thế, dễ dàng hành trì tu tập như thế, sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật lại có nội dung thậm thâm vi diệu, đệ nhất thù thắng so với các pháp môn tu tập khác. iều này là mối nghi trong tâm thức của đa số Phật tử có thiên kiến lệch lạc về công năng của pháp niệm A-di-đà cho rằng pháp trì danh này không đạt tới đạo quả bằng pháp tu Thiền ịnh và chỉ thích hợp cho người già cả hay kẻ có trình độ trí huệ thấp kém không đủ khả năng theo Thiền Tông hay Mật giải trừ mối nghi thiên lệch này, xin mời ai có nghi tâm lắng nghe ức Phật Thích Ca nói trong kinh Niệm Phật Ba-la-mật Nếu có chúng sanh nào chí thành xưng niệm danh hiệu Nam-mô A-di-đà Phật thì uy lực bất khả tư nghị của danh hiệu khiến cho Tâm thể thanh tịnh mà chúng sanh ấy không hề hay biết, tự nhiên chứng nhập Sơ phần Pháp thân … Muốn vãng sanh Cực Lạc chỉ cần xưng niệm danh Phật là đủ. Vì danh hiệu Phật chính là biểu tượng của Pháp thân, do đó niệm danh hiệu Phật tức là niệm Pháp thân Phật và người niệm Phật khỏi cần phải kiêm thêm bất cứ môn tu nào kinh ại Tập Phật dạy Thời Mạt pháp vạn ức người tu không được một người giải thoát, chỉ nương pháp môn Niệm Phật mới có thể ra khỏi được luân hồi. Phật còn so sánh với pháp môn Thiền ịnh Nếu cầu Vô thượng Bồ-đề nên tu Niệm Phật Thiền Tam Muội… Xưng niệm Phật A-di-đà là Vô thượng thâm diệu Thiền… Trong kinh Bửu Tích Phật thưa với Phụ Vương Tịnh Phạn Phụ Vương nên niệm danh hiệu của Phật A-di-đà nơi cảnh Tây phương Cực Lạc, tinh tấn chuyên cần thì sẽ thành Phật, vui mừng niệm Phật sẽ được Vô Sanh Pháp ra trong nhiều kinh ức Phật thuyết về Tịnh ộ, ngay cả các kinh về Mật tông cũng nói đến Phật A-di-đà. Một nhận xét chính yếu để giải trừ mối nghi về tu thiền và pháp môn niệm Phật Tu Thiền mà không được chân truyền rất dễ lạc vào tà kiến, ma đạo thường gọi là Ma Thiền, giống như kiến bò lên núi, mọt đục mắt tre. Do đó tu Thiền cần thêm Niệm Phật, nhiều Thiền sư vẫn chuyên cần niệm Phật. ây chính là nguyên do có giải pháp Thiền Tịnh song tu. Mật Tông cũng thờ Phật A-di-đà, xưng là Cam Lộ Vương, sáu chữ Hồng Danh gọi là Cam Lộ chú, Cam Lộ đến sáu chữ Hồng Danh Nam-mô A-di-đà Phật, nhiều người có tín tâm tu Phật cầu phước đã ngộ nhận đây chỉ là câu niệm Phật cầu xin ân cứu độ, ban phước lộc cho hành giả. Sự thật không đơn thuần giản dị như vậy, càng thâm tín, càng lý giải tường tận, càng hành trì miên mật hành giả mới dần dần tỏ ngộ nội dung ý nghĩa sáu chữ Hồng Danh là vô lượng bất khả tư nghị, ai chứng ngộ mới tỉnh thức được rốt ráo. Trong giới hạn một bài viết, ở đây chỉ trình bầy một số đặc thù của pháp môn Niệm Phật, lấy sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm đề GIẢI THÍCH PHÁP MÔN NIỆM PHẬT. * GIẢI THÍCH THEO TỪ NGỮ. Niệm có nghĩa là nghĩ đến, nhớ đến, giữ lại trong tâm thức, nghĩ đến như ý niệm, khái niệm, quan niệm…, nhớ đến không quên như kỷ niệm, lưu niệm, tưởng niệm… Do đó, niệm Phật là nghĩ tưởng nhớ đến Phật. Từ ngữ Phật ở đây có nghĩa rất rộng bao gồm danh hiệu, sắc thân, pháp thân, ân đức Phật… Phổ Hiền ại Bồ Tát giảng về Lục tự Hồng Danh có vô lượng vô biên bất khả thuyết ý nghĩa thâm mật vi diệu. Sau đây chỉ là sơ lược yếu chỉ chia làm ba phần– NAM-MÔ Phiên âm tiếng Sanskrit Namah, có nghĩa như quy y quyết tâm vâng theo, cung kính và nương theo gửi đời mình cho Phật. ây là giai đoạn Thủy Giác có nội dung bao gồm năng niệm, trì giới, diệu quan sát thế gian giới, là bắt đầu đi trên con đường Giác Ngộ.– A-DI-À Phiên âm tiếng Sanskrit Amita, có nghĩa Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ, chỉ Năng lực bất tư nghị của ức Di-à. ây là giai đoạn Tương tục Giác, có nội dung bao gồm tương tục niệm, thiền định thâm nhập Pháp giới, bình đẳng tánh trí, là liên tiếp trì niệm trên suốt hành trình Giác Ngộ.– PHẬT Phiên âm tiếng Sanskrit Buddha, tức Phật-đà nói tắt, có nghĩa là giác ngộ, dứt khỏi luân hồi, giải thoát. ây là giai đoạn Bản Giác, có nội dung bao gồm thành tựu sở niệm, trí huệ, là đại viên cảnh trí, vô tận sở hữu trí, viên thành Phật tóm tắt, ba giai đoạn gồm có Thường, Tịch và Phật là pháp hữu vi tác nghiệp gieo nhân lành gồm cả ba nghiệp thân, khẩu và ý. Khi niệm Phật, hành giả thường đứng hay ngồi ngay ngắn, thái độ trang nghiêm, mắt nhìn thẳng vào hình tượng Phật ó là thân nghiệp. Hành giả nói ở miệng thành lời ó là khẩu nghiệp, từ ngữ xưng niệm diễn tả rõ nghĩa này. Hành giả nghĩ tưởng đến Phật ó là ý nghiệp, từ ngữ tâm niệm diễn tả rõ nghĩa này. Niệm Phật cần phải tín nguyện và nhất tâm thì mới thành tựu được công đức pháp tu này là lúc mệnh chung vãng sanh về nơi Cực Lạc, đạt tới pháp vị Thượng Thiện Nhân, nghĩa là đã thấy Phật.* NIỆM PHẬT LÀ PHÁP TU TỊNH kinh Niệm Phật Ba-la-mật, Niệm Phật xưng danh A-di-đà với sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật là hành giả nhất tâm chí thành, chuyên cần bất thối, không gián đoạn luôn luôn nghĩ tưởng trong thâm tâm Pháp thân, Hóa thân và Báo thân của ức Phật A-di-đà đang hiện ra trong thân và tâm của mình, và danh hiệu Nam-mô A-di-đà Phật đang tuôn chảy thành một dòng tâm, lâu ngày sẽ thành một khối lưu ly sáng rực… Danh hiệu Nam-mô A-di-đà Phật sẽ lọc sạch phiền não trong thân tâm Người Niệm Phật. Hành giả sẽ dứt hết nghiệp quá khứ, thân tâm trở nên Thanh Tịnh, chỉ còn nghiệp ở hiện lưu tâm điều thiết yếu ạt tới thân tâm Thanh Tịnh, nói cách khác là siêu thăng Tịnh ộ, vãng sanh về cõi Tịnh ộ của một vị Phật, mỗi vị Phật có một cõi Tịnh ộ, vô số Phật có vô số cõi Tịnh ộ. Cõi Tịnh ộ của ức Phật A-di-đà mang tên Tây phương Tịnh ộ, Tây phương Cực Lạc, hay nói tắt là cõi Cực thăng Tịnh ộ chưa phải là Nhập Diệt Niết Bàn, chưa phải là Tịch Diệt, chưa phải là Vô Sanh, Liễu sanh thoát tử, tóm lại chưa phải là Giải thoát khỏi luân hồi. Lý do Sau khi được Phật A-di-đà tiếp dẫn khi mệnh chung vãng sanh về nơi Cực Lạc, hành giả đã dứt hết nghiệp quá khứ, thân tâm trở nên Thanh Tịnh an trụ ở cương vị Thượng Thiện Nhân. Hành giả chưa chứng nhập Tịch Diệt vì vẫn còn tiếp tục tạo nghiệp, nghĩa là còn tiếp tục gieo nhân, chuyển hóa theo lý luân hồi nghiệp báo. Vì vậy hành giả vẫn tiếp tục hành trì niệm Phật miên mật bất thối. Với thân tâm Thanh Tịnh đã đạt tới, lại ở nơi thường gập Thánh chúng Bồ Tát và chư Phật, hành giả có sẵn phước duyên dễ dàng nhanh chóng chứng đắc Phật Niệm Phật Ba-la-mật dẫn giải Niệm Phật Ba-la-mật là nhiếp thọ hào quang do Phật A-di-đà phóng ra. Cây cỏ, chúng sanh cũng đều có hào quang nhưng bị lu mờ vì vô minh. Khi niệm Phật, hai hào quang của Phật và chúng sanh dung thông nhau, lập tức ức A-di-đà nhiếp thọ, và ngay lúc đó ở cõi Cực Lạc thấy mọc lên một mầm sen của chúng sanh Niệm Phật… Hai hào quang dung thông phóng ra làm cho ác ma xa lánh 40 dậm và sen của hành giả sẽ được tươi Phật Ba-la-mật là rốt ráo nhất tâm tín nguyện, niệm sao cho không còn có một vọng tưởng nào đến quấy đảo tâm thanh tịnh của hành giả. Hoa sen có tánh đặc thù là sống trong bùn mà không nhiễm mùi bùn, vẫn giữ được hương thơm nhẹ nhàng thanh Phật học, hoa sen là biểu tượng của tâm Thanh Tịnh do hào quang của Phật A-di-đà nhiếp thọ tiếp dẫn đem về nuôi trong ao Thất Bảo 2 có nước thanh tịnh gọi là Tịnh thủy. Kể từ khi được nuôi bằng Tịnh thủy, hành giả vẫn tiếp tục hành trì Niệm Phật miên mật bất thối để hoa sen tiếp tục nở cho đến lúc mãn khai. Khi hoa sen mãn khai, hành giả đắc pháp vị A-duy-việt trí Bồ Tát, có đủ phép thần thông, có khả năng thuyết pháp độ sanh như chư Phật, chỉ chờ thời kỳ khế hợp thì đi làm từ ngữ, A-duy-việt trí là Trí bất thối chuyển, viên mãn Phật quả, nghiệp chướng được tẩy sạch, giải thoát khỏi luân hồi sanh tử. Khi hoa sen chưa đến độ mãn khai trong ao Thất Bảo, nếu hành giả không giữ được tâm bất thối chuyển, hoa sen sẽ tàn héo. ây là trường hợp đáng tiếc, hành giả hết còn duyên với Phật A-di-đà!Nói cụ thể hơn, sau khi đươc vãng sanh về Tây phương Cực Lạc, hành giả vui hưởng quả phúc nơi Tịnh ộ thường sanh tâm luyến chấp lạc cảnh nơi này, tâm luyến cảnh không còn thanh tịnh rốt ráo, nhất tâm Niệm Phật như trước. Người khéo tu cần nhớ nhập tâm Vãng sanh Cực Lạc chỉ mới là giai đoạn Tịnh hoá thân tâm, cần tiếp tục hành trì phát tâm cứu độ chúng sanh mới đạt tới cứu cánh giải thoát. Diệt đươc Khổ nhưng lại chấp thủ Lạc thì chưa ra khỏi được Luân hồi sanh NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ CỦA DANH HIỆU số tám vạn bốn ngàn pháp tu chỉ có pháp môn Niệm Phật là thù thắng đệ nhất, cứu cánh đệ nhất, hữu hiệu và siêu việt nhất. ó là lời dạy của ức Thích Ca. Sự Nhất Tâm Niệm Phật bao gồm cả hai phần Sự và Lý-Nhất tâm về Sự là không trụ vào một niệm nào khác,-Nhất tâm về Lý là thể nhập vào thực tướng của Phật, hành giả dần dần thành tựu Chánh ịnh Như Lai và tự nhiên phát sanh Tuệ Giác Không hiệu Nam-mô A-di-đà Phật sẽ lọc sạch phiền não trong thân tâm Người Niệm Phật. Nhờ xưng niệm sáu chữ Hồng Danh, hành giả nhìn thấy cảnh vật bên ngoài đúng như bản thể thực chất của chúng, không còn bị chúng chi phối, do đó điều phục thân tâm và không còn móng khởi tâm phân khi niệm Phật, nếu gập bất cứ thanh trần nào cũng đừng để tâm vào, cứ tiếp tục niệm Phật. ó là danh hiệu Phật đang tuôn chảy liên miên bất tận thành một dòng tâm mà mỗi sát na đều hiển hiện Chân Như Tánh…Tiếp tục hành trì niệm Phật như thế, chẳng bao lâu thì Tánh Nghe cũng không còn. Khi ấy, Phật trí tự nhiên tỏa rạng, danh hiệu Phật vẫn tương tục, không gián đoạn. Thuật ngữ Phật học gọi là VONG SỞ, có nghĩa không còn nghe thấy tiếng mình niệm Phật. Cũng nói là Niệm, vô niệm, niệm khi không còn phân biệt năng niệm với sở niệm nữa. ó là khi hành giả đã chứng ngộ ngũ uẩn là không, ngã kiến ngã chấp bị lọc sạch, thân tâm trở nên quang minh thường tại, chiếu suốt mười phương pháp giới. Nói cách khác, Tri Kiến Giác Ngộ của hành giả trở nên đồng đẳng với Tri Kiến Giác Ngộ của chư Như sanh vô minh vì lý do chấp ngũ uẩn làm thân và tâm thật của mình. Năng lực nhiệm màu của pháp môn Niệm Phật chuyển hóa dần dần VÔ MINH thành VIÊN GIÁC theo tiến trình Biết tất cả các pháp đều như huyễn, nhất thiết pháp giai không. Biết là huyễn, là không tất sẽ ly. Ly huyễn tức là Giác. Danh hiệu Phật hòa tan căn, trần, thức và tất cả đều nhập vào Viên Giác Tánh, cũng gọi là Hư Không Tạng, Vô Cấu Tạng, Tịch Tịnh Tạng. Hành giả dần dần thành tựu Chánh ịnh Như Lai, tự nhiên phát sanh Tuệ Giác Không Tánh. Nói vắn tắt Niệm sanh Tịnh, Tịnh sanh ịnh và ịnh sanh Giác Không Tánh đạt tới mức hết sức Thanh Tịnh, gọi là Vô Cấu Thức hay Bạch Tịnh Thức, tiếng Sanskrit là A-mạt-la thức thức thứ 9, cao hơn A-lại-da thức. Trong Kinh Vô Lượng Thọ, ức Thích Ca bảo Này A-Nan! ức Phật Vô Lượng Thọ oai thần quang minh tối tôn đệ nhất, quang minh của chư Phật chẳng bằng! 3III – NIỆM PHẬT TÔNG Phật là Pháp Môn Tha Lực duy nhất trong Phật Pháp mà điểm then chốt là tin tưởng tuyệt đối vào Bổn Nguyện của ức Phật A-di-đà. ó là dùng DANH HIỆU của ngài để cứu độ tất cả chúng sanh. Không hiểu tường tận ý này, nhiều người nhất là hàng cư sĩ tại gia thường cho rằng Niệm Phật Xưng Danh là pháp môn dành cho hạng hạ căn không đủ căn cơ để tu những pháp môn về Thiền Quán như Quán Thật Tướng, Quán Tưởng, Quán Tượng, v…v… Hơn nữa khi tu Niệm Phật phần đông mang tâm niệm TỰ LỰC, trông cậy vào sức mình để được vãng sanh. ây chỉ là Tự Lực Niệm Nhiên Thượng Nhân 1133-1212, tên Nhật là Honen, Khai Tổ của Tịnh ộ Tông Nhật Bản 4 nhận định tông yếu của pháp môn Tha Lực Niệm Phật. Tác phẩm quan trọng nhất Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập được coi như một áng linh văn bất hủ về Tịnh ộ có những điểm then chốt như sau1-Thánh ạo Môn gồm các pháp môn ngoài Tịnh ộ Tông tuy thâm diệu nhưng thời điểm và căn cơ chẳng tương ứng. Tịnh ộ Môn hình như nông cạn nhưng thời điểm và căn cơ đều tương Mạt Pháp một vạn năm, các kinh điển khác đều tiêu diệt, chỉ còn pháp môn Di à để cứu độ chúng Tịnh ộ siêu hơn các tông. Hạnh Niệm Phật siêu hơn các hạnh. Lý do vì thâu nhiếp tất cả các căn Chẳng kể có tội hay vô tội, trì giới hay phá giới, tại gia hay xuất gia, thiện hay ác, trong các tiền kiếp có phúc căn hay tội căn, hữu trí hay vô trí, nếu căn cứ vào thời điểm và căn cơ thì chỉ có pháp môn Tịnh ộ, Hạnh Niệm Phật là yếu pháp thoát khỏi sanh tử trong đời minh của ức A-di-đà chỉ soi chiếu người Niệm Phật, chẳng soi chiếu người tu các hạnh vào cái Tâm Tha Lực Nguyện Lực của ức Di-à mà Niệm Phật thì chỉ trong khoảnh khắc sẽ được vào sự lai nghinh của ức Phật 18 trong số 48 ại nguyện của ức Phật A-di-đà Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh chí tâm tín mộ muốn sanh về nước tôi, nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh thời tôi không ở ngôi Chánh Giác, trừ kẻ tội tạo ngũ nghịch cùng hủy báng Chánh 19 bổ sung trường hợp phát Bồ-đề tâm Lúc tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương phát Bồ-đề tâm tu các công đức, chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước tôi, lúc thọ mạng chung, tôi và đại chúng vây quanh hiện ra trước mắt họ. Nếu không như vậy, tôi chẳng lấy ngôi Chánh Niệm Phật hoàn toàn không có hình thức, đã lấy KHÔNG HÌNH THỨC làm hình thức. Chỉ cần biết rằng thường Niệm Phật, Chí tâm niệm Phật thì đến lúc lâm chung nhất định Phật lai nghinh mà vãng sanh sang cõi Cực Nếu thường xưng danh hiệu thì do công đức của Phật danh, vọng niệm tự dừng, tán loạn tự yên, tam nghiệp tự điều, nguyện tâm tự Trong nhãn quan của Pháp Nhiên thì-Tam tâm chỉ Thành tâm, Thâm tâm, Hồi hướng phát nguyện tâm cũng là Nam mô A-di-đà Niệm Lễ bái, Xưng tán,Phát nguyện, Quán sát, Hồi hướng cũng là Nam mô A-di-đà Tu Cung kính tu, Vô dư tu, Vô gián tu, Trường thời tu cũng là Nam mô A-di-đà Người lười biếng Niệm Phật là kẻ đánh mất đi vô lượng châu báu. Người siêng năng Niệm Phật là kẻ khai mở ra vô biên sáng suốt. Nên dùng cái tâm NƯƠNG PHẬT LỰC, cầu vãng sanh mà tương tục Niệm Nghe nói một niệm, mười niệm cũng được vãng sanh rồi lơ là việc Niệm Phật ó là TÍN chướng ngại HẠNH. Nghe nói niệm niệm chẳng rời rồi nghĩ rằng một niệm vãng sanh bất định ó là HẠNH chướng ngại TÍN. Tin thì một niệm cũng vãng sanh, mà hành thì siêng năng xưng niệm suốt đời. Vãng sanh mà nghĩ rằng nhất định thì NHẤT ỊNH, nếu nghĩ rằng bất định thì BẤT ỊNH!11- Không để ý đến thiện ác của bản thân, chỉ một lòng cầu vãng sanh mà Niệm Phật. ó là Tha Lực Niệm Phật. Tin rằng bản thân bị tội chướng khó được vãng sanh là điều sai lầm rất lớn. Hạng vô trí, tội chướng Niệm Phật mà được vãng sanh mới là Ý CHÁNH của bổn nguyện của Phật Tuy được nghe Danh Hiệu mà không tin thì cũng như không được nghe. Tuy có tín tâm mà không xưng niệm thì cũng như không tin. Bởi thế nên một lòng Niệm Phật, không chút nghi Phật lai nghinh là để người tu Niệm Phật lúc lâm chung được chánh niệm, không phải lúc lâm chung cần phải có chánh niệm thì mới được Phật lai Tất cả Phật pháp nhằm chế phục điều ác. Vì hạng ngu si phàm phu không dễ gì làm được nên khuyên Niệm Phật để diệt tội. Hễ có tín tâm thì tội lớn cũng diệt, không có tín tâm thì tội nhỏ vẫn Người tu Tịnh ộ trước hết cần biết hai điều-Vì người có duyên, dù phải bỏ thân mạng, tài sản cũng nên vì họ mà nói pháp môn Tịnh sự vãng sanh của chính mình, nên xa lìa mọi phiền nhiễu mà chuyên tu hạnh Niệm hai điều trên, không nên tính toán gì khác. Tất cả mọi việc trong đời đều y theo Niệm Phật mà quyết định. Tất cả đều là trợ duyên cho Niệm Phật, hễ gây chướng ngại thì nên từ Thánh ạo Môn các tông phái khác đều tu cái NHÂN của tam thừa, tứ thừa để được cái QUẢ của tam thừa, tứ thừa. Do đó không thể so sánh với hạnh Niệm Phật vì lý do mục đích khác nhau. Còn trong Tịnh ộ Môn thì các hạnh đọc tụng kinh điển, lễ bái, quán tưởng, quán tượng… và hạnh Niệm Phật đều là NHÂN để vãng sanh nên có thể so sánh với các hạnh khác đều chẳng phải là Di à Bổn Nguyện, do đó quang minh của ức Di à chẳng thu nhiếp, mà ức Thích Ca cũng chẳng phó chúc. Bởi thế, Thiền ạo ại Sư 5 có dạy Tất cả các hạnh khác tuy gọi là thiện, nhưng so với Niệm Phật thì hoàn toàn không thể so sánh Muốn mau lìa sanh tử, trong hai loại thắng pháp hãy bỏ qua Thánh ạo Môn mà theo TỊNH Ộ các pháp Tịnh ộ Môn có hai hạng Chánh và Tạp, hãy bỏ qua các Tạp hạnh mà quay về theo CHÁNH phạm vi Chánh Hạnh có hai phần Chánh ịnh và Trợ Nghiệp, chớ theo Trợ Nghiệp mà chuyên tu CHÁNH ỊNH, tức XƯNG NIỆM PHẬT DANH nương theo BỔN NGUYỆN DI-À thì tất nhiên được vãng sanh. Niệm Phật là việc mình làm, tiếp dẫn vãng sanh là việc Phật làm, hai việc hữu duyên tương ứng là năng lực bất tư nghị của Danh hiệu Phật. Thâm tín trì niệm là đủ, không còn nghi ngờ tính toán gì Năm điều quyết định sự vãng sanh– Bổn Nguyện của ức Di-à.– Lời dạy xác minh của ức Thích Ca.– Sự chứng minh của Chư Phật.– Giáo thích của Tổ Thiện ạo.– Tín tâm của người Niệm Di à Bổn Nguyện phát ra không phải chú trọng đến hạng thiện nhân có phương tiện, có thể dùng tự lực để thoát ly sanh tử, mà chính vì hạng ác nhân tội chướng không có phương tiện để tự giải thoát. Tuy nhiên hạng Bồ Tát, Thánh Hiền cũng có thể nương vào THA LỰC NIỆM PHẬT mà được vãng sanh. Di-à Bổn Nguyện không có sự phân biệt, tất cả đều bình đẳng như Tu Thánh ạo Môn thì cần trí huệ tột cùng để lìa sanh tử. Tu Tịnh ộ Môn thì trở lại ngu si để được vãng sanh, chẳng dựa vào trí huệ, chẳng lo tròn đạo hạnh, chẳng cần tu tâm dưỡng tánh, mà chỉ cần tự thấy mình là người vô năng vô trí, cần nương vào Bổn Nguyện Di-à mà Niệm Phật để được vãng tín và hành trì như trên, lúc lâm chung chắc chắn Phật lai nghinh. Nếu bình thường đã thường xuyên xưng danh tích lũy công đức thì dù cho lúc lâm chung vì lý do nào đó tâm vọng động tán loạn bất định không xưng được Phật danh, hành giả vẫn được quyết định vãng pháp tuy vô lượng nhưng xét đến chỗ cương yếu thì Tha Lực ốn Giáo thù thắng hơn cả. Tổ Huệ Viễn 334-416, Sơ Tổ của Tịnh-ộ Tông Trung Hoa, một cao tăng đầu tiên nhấn mạnh đến sự quan trọng của Thiền ịnh có xác nhận Các môn Tam Muội tuy nhiều nhưng công cao lại dễ tu thì Niệm Phật lại hơn Nương tựa Bổn Nguyện Di-à không phải là quán tưởng trong tâm, mà là XƯNG NIỆM DANH HIỆU, đừng trụ tâm ở quán tưởng mà cần xưng danh ra danh là CHÁNH NHÂN quyết định vãng sanh. Ngoài xưng danh ra không có gì quyết định vãng sanh như chánh hạnh, chánh nghiệp, trí huệ…22- Quyết định quy kết của Pháp Nhiên Thượng Nhân Sống thì Niệm Phật tích lũy công đức, Chết thì vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Không có gì trong đời này làm bận tâm THỊ VÀ DI HUẤN CỦA PHÁP NHIÊN THƯỢNG NHÂN Ể LẠI CHO Ệ TỬ LÚC LÂM CHUNG Thày mấy chục năm nay, công phu Niệm Phật tích lũy, được bái kiến Cực Lạc Trang Nghiêm và Chân Thân của Phật, Bồ Tát là việc bình thường, nhưng thày giữ kín không nói ra. Nay đã đến lúc tối hậu nên mới bày tỏ đôi chút …Hai ngày trước khi vãng sanh, Ngài Pháp Nhiên lấy bút viết bản di huấn tối hậuChẳng phải là Niệm Phật theo lối quán niệm mà các bậc trí giả Trung hoa, Nhật Bản thường nói đến;Cũng chẳng phải là Niệm Phật theo lối phải thâm nhập kinh tạng để thấu hiểu thâm nghĩa của Niệm nghĩ rằng ể vãng sanh Cực Lạc thì xưng niệm Nam-mô A-di-đà Phật là quyết định vãng sanh, không nghi ngờ mà xưng niệm. Ngoài ra, không có thâm áo gì vì điều gọi là Tam Tâm, Tứ Tu đều đã quyết định bao hàm trong tưởng niệm Nam-mô A-di-đà Phật, quyết định vãng sanh Xin xem lại số 8 đã nói ở trên.Ngoài đó ra, nếu có gì thâm áo khác là ở ngoài lòng từ mẫn của hai ấng Từ Tôn Phật Thích Ca và Phật A-di-đà, lọt khỏi bổn muốn tin Niệm Phật thì dù cho có thể học hết giáo pháp một đời của ức Thích Ca cũng thành ra kẻ một chữ chẳng biết, ngu độn như hạng vô trí, chớ hiện ra vẻ trí giả, hãy một mực Niệm in vào đây cả hai bàn tay của tôi để xác nhận di huấn này… Không còn gì để nói nữa, tôi đã viết hết những điều cốt tủy ở đây để ngăn ngừa những dị kiến sau khi tôi ra đi. KẾT LUẬNọc đến đây, chắc có nhiều bạn chưa tin hẳn vào NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ của NIỆM PHẬT đã trình bày ở trên, lý do rất dễ hiểu Hạnh tu gì đơn giản, dễ dàng đến người già trẻ con đều làm được mà lại có năng lực thâm mật vi diệu đến thế? ể giải trừ nỗi vương vấn phân vân, một ẩn dụ dẫn giải tường tận và chính xác giúp các bạn NHẤT THIẾT GIỮ TÍN TÂM TUYỆT ỐI đối với sáu chữ Nam-mô A-di-đà PhậtNếu cùng đi trên con đường gồ ghề có nhiều lối rẽ như băng qua rừng núi thì một người sáng mắt khoẻ chân mới có thể nhất định đi đến đích, một người mù què chân đi phải chống nạng tất nhiên là không thể so sánh được. ấy là cả hai người đều dùng TỰ LỰC để di chuyển. Nếu cùng dùng đường hàng hải hay đường hàng không thì cả hai người đến tới đích cùng một lúc, nhanh chóng và dễ dàng như nhau. ây là cả hai người đều dùng THA LỰC để di cầm bút thiết tha xin các bạn đã vững tín tâm và hành trì Niệm Phật hãy phổ biến tài liệu này đến các bạn đồng đạo còn vương vấn chút nghi ngờ về ƠN CỨU Ộ vô lượng vô biên của Bổn Nguyện Di-à. ó là pháp duyên gieo Nhân lành, tích lũy Công ức, xin chớ bỏ tự nhận thấy mình là người mù què, hãy xưng niệm ngay NAM MÔ A-DI-À PHẬT! ức A-di-đà sẽ đến đón vãng sanh với lòng thương tự nhận thấy mình là người sáng suốt khỏe chân, cũng xưng niệm ngay NAM-MÔ A-DI-À PHẬT! ức A-di-đà cũng sẽ đến đón vãng sanh với lòng hoan tự nhận thấy mình không thuộc một trong hai hạng người vừa kể trên thì người đó không hiểu biết chút gì về Bổn Nguyện Di-à, đã tự đánh mất cả một kho báu vô giá mà Phật đã ban cho tất cả mọi chúng sanh một cách đồng đều, không bỏ sót bất cứ HẠC Lê Thái ẤtCHÚ THÍCH1- Phật A-di-đà Tiền thân hai vị Phật ức A-di-đà và ức Thích Ca cùng với 14 vị Phật khác đều là anh em ruột, phụ vương là ức Phật ại Thông Trí Thắng Mahabhidjadjnnabhikhu. Tất cả 16 vị vương tử đều theo cha xuất gia, thọ trì Bồ Tát ạo và được cha truyền cho quả tiếng Sanskrit Buddhaksetra có nghĩa là Phật độ, nơi Thanh Tịnh, cõi Phật, nơi cuối cùng cần đạt tới, sau đó mới tiến tới chứng nhập Niết Bàn. Mỗi vị Phật có một cõi Tịnh-ộ. Cõi Tịnh-ộ của ức A-di-đà gọi là Tây phương Tịnh ộ, Tây phương Cực Lạc, cõi Cực Lạc. Cõi Tịnh-ộ của ức Thích Ca là Tịnh ộ phương ông Bắc, và theo Kinh ại Bát Niết Bàn cõi này mang tên cõi Vô Thắng Tịnh ộ. ức Phật Di-Lặc, vị Phật tương lai hiện đang giáo hóa ở cõi Trời âu-Xuất sẽ tạo ra một Tịnh-ộ Ao Thất Bảo Ao có nước Tịnh Thủy để rửa sạch mọi phiền não, trong đó có bảy vật báu biểu tượng cho Tâm Thanh Tịnh rốt ráo ở cõi Cực Lạc. Lục Tổ Huệ Năng giảng trong Pháp Bảo àn kinh Thất Bảo tiêu biểu cho bẩy ại Hạnh gồm có KIM Giới, NGÂN Tín, LƯU LY Văn, PHA-LÊ Tâm, XÀ CỪ Tinh Tấn XÍCH CHÂU Huệ và Mà NÃO Xả. ây là Thất Thánh Tài tức tài sản của Chư Thánh dùng để nuôi dưỡng Chân Tâm người trì Danh hiệu của đức A-di-đà Trong Kinh Vô Lượng Thọ , ức Thích Ca bảo A-Nan Này A-Nan! ức Phật Vô Lượng Thọ oai thần quang minh tối tôn đệ nhất, quang minh của chư Phật chẳng bằng. Kinh Vô Lượng Thọ nói ức A-di-đà có 13 Phật danh, ngoài tên Vô Lượng Thọ Phật còn 12 tên khác đều có chữ QUANG ở sau, có nghĩa là ánh sáng chứng tỏ oai thần quang minh của ức A-di-đà có đặc tính tối tôn đệ nhất1- Vô Lượng Quang Phật 2- Vô Biên Quang Phật 3- Vô Ngại Quang Phật 4- Vô ối Quang Phật 5- Diệm Vương Quang Phật 6- Thanh Tịnh Quang Phật 7- Hoan Hỷ Quang Phật 8- Trí Huệ Quang Phật 9- Bất oạn Quang Phật 10- Nan Tư Quang Phật 11- Vô Xứng Quang Phật 12- Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật4- Pháp-Nhiên Thượng Nhân 1133-1212, tên Nhật là Honen, Khai Tổ của Tịnh-ộ Tông Nhật Bản. Tiểu sử của ngài cho biết ngài đã mãn nghiệp thế gian đúng như Chánh Nghiệp Làm con một vị quan đến ngoại tứ tuần vẫn chưa có con nối dõi, Ngài ra đời sau khi cha mẹ vào chùa tụng kinh bẩy ngày đêm xin Phật gia hộ. Khi Ngài đản sinh có hai luồng hào quang ở trên không chiếu xuống, tiếng chuông ngân vang. Ngài có tướng mạo phi phàm từ thuở sơ Ngài chín tuổi, phụ thân bị địch quân sát hại. Lúc lâm chung, vị quan thất thế kêu Ngài đến dạy ây là túc nghiệp của cha, tuyệt đối không nên ôm hận báo thù. Hãy nhớ rằng oán không thể diệt được oán!… Sau này thành nhân, con hãy cầu vãng sanh Cực Lạc, lợi lạc bình đẳng cho người và cho 14 tuổi, tuân theo lời cha dạy Ngài xuất gia với Pháp sư Giác Quán ở chùa Bồ ề tại quê nhà. Pháp sư Giác Quán thấy Ngài thông tuệ khác thường liền đưa Ngài đến một tu viện nổi tiếng ở kinh đô để tham học với Pháp sư Nguyên Quang. Không bao lâu Pháp sư Nguyên Quang lại tiến cử Ngài tham học với Tổ Hoàng Viên Tông Thiên Thai thời đó. Thu nhận Ngài làm đệ tử chưa đầy ba năm, Tổ Hoàng Viên thấy Ngài đã thấu triệt tất cả những áo diệu của Giáo Pháp Thiên Thai có ý muốn truyền Tổ vị cho Ngài. Nhận thấy ở Nhật Bản thời đó một chức sắc trong giáo quyền được hưởng rất nhiều quyền lợi, vì không muốn bị ràng buộc lợi danh Ngài ra đi vào năm 18 tuổi đến ẩn tu ở núi Hắc Cốc, tham học với Hòa Thượng Duệ Không, một vị cao tăng của Mật Tông thời bấy giờ. Hòa Thượng Duệ Không đặt pháp hiệu cho Ngài là PHÁP NHIÊN, có nghĩa Pháp vốn Như Vậy và pháp danh là NGUYÊN KHÔNG, ghép chữ đầu và chữ cuối ở tên của hai vị ại Sư Nguyên Quang và ại Sư Duệ Không mà Ngài thọ huấn. Tại đây Ngài được truyền thụ Viên Thừa ại Giới và Du Già Bí Pháp. Ngài tinh thông mọi Tông phái, duyệt đọc 5 lần ại Tạng nên được đương thời tôn xưng là Trí Huệ ệ Giáo Pháp, dưới nhãn quan của Ngài thì Xưng Danh Niệm Phật vừa là Chánh Hạnh, Chánh Nhân và Chánh Nghiệp trong đời sống thế gian. Lưu ý tại Nhật Bản có hai Tông phái dễ gây ngộ nhận Tịnh-ộ Tông, tiếng Nhật là Jodo-shu, Khai Tổ là Pháp Nhiên và Tịnh-ộ Chân Tông, tiếng Nhật là Jodo- Shinshu, về sau do Thân Loan đệ tử của Khai Tổ Pháp Nhiên biến thái lập riêng Thiện ạo ại Sư theo truyền thuyết của Trung Hoa là Hóa thân của Phật Chùa Phúc LâmBài 01 Yếu nghĩa của Nam mô A-di-đà PhậtBài 02 Ý nghĩa niệm “Nam mô A Di Đà Phật”Bài 03 Ý nghĩa của 6 chữ Nam mô A di đà Phật–>bài đọc thêmPháp môn niệm Phật trong kinh A Di ĐàĐức Phật A Di Đà và cõi Tịnh Độ Cực LạcKinh Vô Lượng Thọ Phật – Thích Trí Tịnh DịchKINH A DI À48 pháp niệm PhậtCác trường hợp Luân hồi trên Thế giới & Việt Nam

a di đà phật tiếng hoa là gì