ai giết nguyễn bình

Đêm năm canh lần nương vách quế, Cái buồn này ai để giết nhau, Giết nhau chẳng cái Lưu Cầu, 240. Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa! Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ, Xe thế này có dở dang không? Đang tay muốn dứt tơ hồng, Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra! 245. Bạn gái bàn về chuyện tha thứ cho người yêu, Johhny Trí Nguyễn bình luận gây chú ý. Chuyện làng sao - 1 giờ, 5 phút trước. Hiếm hoi lắm mới thấy Johnny Trí Nguyễn bình luận trên facebook của bạn gái. Tuy nhiên, những lời Johnny Trí Nguyễn nói ít ai hiểu được. Tuyên Từ Hoàng hậu tên thật là Nguyễn Thị Anh (1422 – 1457) – người xã Bố Vệ huyện Đông Sơn, Thanh Hóa (nay là phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa) – một trong những phi tần rất được Lê Thái Tông hoàng đế sủng ái, mẹ đẻ của vua Lê Nhân Tông. Bà chưa bao giờ làm Tiểu sử shark bình. Bất ngờ xuất trong Shark Tank Việt Nam năm 2019. Shark Nguyễn Hòa Bình với kinh nghiệm hơn 20 năm khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ, ông chủ NextTech có phải là đối tác “nặng ký” mà các startup công nghệ chú ý trong bể cá mập? Cùng BizSpace.vn lật ngay lý Ngày 1 tháng 11 năm 1963, các tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã lãnh đạo một cuộc đảo chính lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm. Lúc 1h30 chiều, các sỹ quan cao cấp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã tổ chức một cuộc họp tại một sở chỉ huy ở gần Tân Sơn Nhất, giả vờ như một cuộc họp model baju batik untuk orang kurus agar terlihat gemuk. Về cái chết của trung tướng Nguyễn Bình và vai trò trách nhiệm của tướng Võ Nguyên Giáp Nguyễn Văn LụcĐàn Chim Việt Đại tướng Võ Nguyên Giáp Cộng sản nó giết mình hôm nay Ngày mai nó mang vòng hoa đến phúng điếu Lời tâm sự của TT. Trí Quang với một đệ tử thân tín, sau 1975 Trong những năm gần đây, để kỷ niệm 100 năm ngày sinh của tướng Nguyễn Bình, đã có ít nhất hai cuốn sách viết về cuộc đời của ông để tìm hiểu một số Sự thật và Huyền Thoại liên quan đến ông. Đó là các cuốn Trung tướng Nguyễn Bình, huyền thoại và sự thật của Nguyên Hùng. Cuốn thứ hai ít được dư luận chú ý tới với nhan đề khá nổ Tôi giết Nguyễn Bình của Trần Kim Trúc. một chức sắc Cao Đài. Tôi đã đọc những tài liệu trên và đều xếp vào loại không dễ sử dụng được .. Bài viết sau đây chủ yếu lấy từ nguồn tình báo của Pháp qua một vài tác giả cho thấy cách nhìn, cách đánh giá tướng Bình khác hẳn các tác giả trong nước. Chưa kể rất nhiều bài báo đủ loại liên quan đến tướng Bình. Người ta dựng nên cả một bộ phim về ông. Ngưỡi ta tổ chức một phái đoàn sang tận Campuchia đi tìm hài cốt của ông và mang về Sài gòn chôn cất. Người ta dựng tên đường cho ông trên đường phố Sài Gòn. Sau hơn 50 năm chết chôn vùi vô danh, ẩn tích trong rừng, ông được đội mồ sống lại. Sự nghiệp của ông được phục hồi. Thật là một điều kỳ lạ chết được sống lại. Sự im lặng trong suốt hơn 50 năm mang một ý ngĩa và sự dựng ông lên sau 50 năm mang một ý nghĩa khác.. Tướng Phạm Xuân Ẩn Nay thì ông được đứng chung trong hàng ngũ những người bị đảng trù dập, bị đầy ải và bị khai trừ, được phủ những vòng hoa phúng điếu. Đó là những Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Thị Ba- người đàn bà làm giao liên, trạm thông tin giữa Ẩn và Việt Minh.. và cả Phạm Xuân Ẩn. Bà Nguyễn Thị Ba cho mãi đến năm 2006 mới được phong là người anh hùng!! Tôi trích lời TT Trí Quang tâm sự với một người đệ tử rất thân cận của ông mà không tiện nói tên- và người này đã tiết lộ cho tôi biết điều ấy- mà tôi nghĩ rằng TT. Trí Quang hẳn là một trong những người hiểu sâu sắc bản chất đểu cáng của cộng sản hơn ai hết mà rất có thể ông là một trong những nạn nhân ấy!! Ông đã từng lớn tiếng trước 1975 và ông đành im lặng 38 năm nay và chắc là cho đến lúc từ giã cõi đời- Chắc là không bao giờ ông có cơ hội lên tiếng nữa-. Gớm thay chế độ ấy đã có thể bịt mồm bịt miệng một người từng làm rung chuyển nước Mỹ. Điều gì đã khiến ông phải im lặng như thế!! Trong số những người tôi vừa nêu tên trên, tôi xin đặc biệt nhắc đến trường hợp tranh sáng tranh tối của ông Phạm Xuân Ẩn như một điển hình- vừa là nạn nhân vừa là anh hùng của người cộng sản- một người hoạt động cho cộng sản chỉ vì lòng yêu nước, nhưng có lòng nhân bản. Giống như nhiều người khác trước khi chết, ông Ẩn đã cẩn thận dặn vợ cho chôn theo ông một cái hộp chứa đựng tất cả thư từ, hình ảnh, tài liệu mang theo như một bí mật đời ông!! Ông cho chôn theo ông những hình ành, tài liệu là quyền của ông. Nhưng điều đó cho thấy một phần ông không muốn tiết lộ cuộc đời của ông, hoạt động của ông có thể ảnh hưởng tới bạn bè ông- một điều mà ông trân trọng nhất trên đời-. Người ta được biết ông Ẩn là bạn thân của rất nhiều người lãnh đạo miền Nam như Trần Văn Đôn, Dương Văn Minh, Bùi Diễm, Nguyễn Cao Kỳ, Cao Giao, Nguyễn Công Khanh và nhiều sĩ quan báo chí trẻ và nhất là bác sĩ Trần Kim Tuyến. Ông Ẩn đã đưa được Trần Kim Tuyến dời Việt Nam vào phút chót. Ông cũng là bạn thân của các nhà báo ngoại quốc như Robert Shaplen, Stanley Karnow, Frances FitzGerald, Robert Sam Anson, David Halberstam, Henry Kamm, Neil Sheehan và ông chủ của ông là Frank McCulloch. Chưa kể những trùm mật vụ như Edward Lansdale, William Colby, Lou Conein… Larry Berman, Perfect Spy, Pham Xuan An, trang 2 và 3 Nhưng bạn thân phía bên cộng sản của ông là ai? Có được mấy người? Tin tưởng được mấy người trước khi chết? Đây là một câu hỏi và nhận xét lý thú đánh giámột cách đích thực con người và tâm tư của Phạm Xuân Ẩn. Nếu cộng sản vinh danh ông là người anh hùng. Kệ họ. Phần những người quen biết ông mà có người tôi đã gặp chỉ coi Phạm Xuân Ẩn là một người bạn tốt. Chỉ biết là lúc nào ông cũng bị cộng sản nghi ngờ, theo dõi, kiểm soát. Họ tra vấn tìm hiểu giai đoạn ông du học bên Mỹ và muốn biết xem ông làm những gì, giao thiệp với ai? Họ nghi ngờ ông còn là người của Mỹ? Vì thế họ không cho ông xuất ngoại sang Mỹ, nhà bị canh chừng, theo dõi. Làm sao không nghi ngờ được khi một trùm tình báo cộng sản tìm hết cách để đưa một tên cựu trùm tình báo ngụy trốn chạy cộng sản thì lý tưởng, ý thức hệ nào có thể chen vào giữa họ được! Cũng thế, khi Phạm Xuân Ẩn khuyên một thằng bạn trẻ- trung úy TQLC- cậu liệu tìm cách mà đi, ở đây không ở được đâu khi chúng nó vào thì lời khuyên ấy có thể xuất phát từ một người cộng sản xác tín không? Xưng hô cậu với chúng nó thì còn gì để nói nữa!! Cộng sản cũng thừa biết, nhưng đã đến lúc cần nặn ra những anh hùng như PXA, PNT thì vẫn phải làm. Cuộc chiến tranh này có những điều không dễ hiểu và không hiểu được!! Trong một buổi tiêp tân, có ông đại tá người Việt hỏi ông Ông có phải là tướng Ẩn Không ? Ông gật đầu nhận. Một khách Mỹ cao cấp đứng cạnh đó hỏi đùa, nhưng ông là tướng ở bên nào mới được? Ông Ẩn trả lời - Without hesitation, Ẩn answered, Both sides’! The colonel looked uneasy. Just kidding, said An. In telling me this story, An concluded, You see, that is why they can’t let me out; they are still unsure who I am. Khi ông yếu mệt vì bệnh phổi, họ thăng cho ông lên hàng tướng. Nội cái việc thăng tướng cho ông là một điều khôi hài chỉ cộng sản mới làm được. Ông ấy có cần cái chức tướng đó đâu. Tôi tin chắc ông PXA hiểu cái trò chơi kệch cỡm ấy, cái vinh danh hão ấy. Ông ráng đóng nốt cái vở kịch dàn dựng mà cộng sản muốn ông đóng cho trọn vẹn. Tôi nhìn ông trong quân phục tướng rất không giống PXA, ngực đầy huy chương mà tội nghiệp cho ông trong đó có bức ảnh tướng Giáp đón tiếp ông, cạnh đó có đại tá Bùi Tín. Lúc ông chết, đám ma được cử hành với nghí lễ dành cho cấp tướng ở nhà quàn bộ Quốc Phòng. Chiêc xe hơi Renault của ông, số 51 nay được trưng bày tại Bảo Tàng Viện ở Hà Nội. Nhưng điều quan trọng hơn hết có lẽ là vài điều ông trối trăng lại cho Larry Berman- người viết tiểu sử ông như sau -Nay thì họ hiểu rằng, tôi đã không làm điều gì sai lầm và tôi thì nay đã sắp chết. Tôi đã không phản bội họ. Họ đã cố gắng thuyết phục tôi thay đổi cách nói của tôi trong vòng một năm và thuyết phục thay đổi cách suy nghĩ của tôi lâu hơn nữa. Họ đã làm được gì. Họ đã không thể loại trừ hay bắn tôi. Họ nói cho tôi biết họ không thích lối nói chuyện của tôi bởi vì tôi khác người. Cho đến tận bây giờ, họ vẫn không biết là có bao nhiêu tin tức tôi biết được và tôi biết như thế nào. Larry Berman, Ibid, trang 9 Henry Kissinger, À la maison Blanche, trang 715, 1968-1973 Câu nói để đời của TT Trí Quang áp dụng như bài học cho nhiều người- cho Phạm Xuân Ẩn và cho cả tướng Nguyễn Bình trong bài viết này. Tướng Nguyễn Bình ở chiến trường miền Nam Tướng Bình được đích thân tướng Giáp và Hồ Chí Minh chỉ định đưa vào Nam Bộ công tác. Thời gian là tháng 10-1945 trước khi cuộc chiến bùng nổ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào năm 2003 đã xác nhận Chính tôi theo chỉ thị của Bác đã trực tiếp nói chuyện với tướng Bình lúc này là Khu trưởng duyên hải Bắc bộ, nay là khu ba và chuyển lệnh vào miền Nam công tác. Đồng chí đã phấn khởi nhận nhiệm vụ và lên đường vào miền Nam và đã cống hiến quan trọng trong nhiệm vụ mới. Sài gòn Giải phóng, 19/3/2013 Có hai tướng khá nổi tiếng thời đó thì một là Nguyễn Sơn được gửi vào khu bốn, tướng Bình vào Nam Bộ và cả hai số phận họ sau nảy đều gặp nỗi bất hạnh. Nỗi bất hạnh ấy do cái logique dialectique của cộng sản. Đối với người cộng sản, dùng được thì dùng không dùng được thì loại trừ. Cái logique ấy chúng ta đều thấy xảy ra biết bao nhiêu cuộc thanh trừng trong nội bộ đảng Việt Nam, đảng bộ Trung Hoa và đảng bộ Liên Xô. Thanh trừng là sức mạnh của tổ chức đảng. Nguyễn Bình vào Nam muốn làm trời, một mình một cõi. Nguyễn Sơn vào khu 4 muốn biến Quảng Ngãi thành một Diên An bên Tàu thì trước sau cũng phải đi chỗ khác chơi. Một viên tướng như Nguyễn Sơn mà phải nhục nhã xin trở về Tàu thì phải hiểu đó là một cách loại trừ nhẹ nhất rồi! Tướng Nguyễn Bình là một viên tướng có cá tính và phong cách dễ nổi bật trong thời chiến tranh với Rượu, gái và ca hát. Với ba cái đó nơi một ông tướng biên cương mà đàn em một số là thành phần trôi sông lạc chợ vì thế ông có thể được lòng các đàn em. Tướng Bình dùng đàn em, thu phục họ theo nghĩa phe đảng. Trong máu ông không có tính đảng. Trong khi tướng Giáp thấy chữ phe là thừa. Chưa kể cả ba cái món hợp khẩu vị tướng Bình ở trên xem ra đối nghịch với con người của tướng Giáp vốn khắt khe, nghiêm chỉnh và kỷ luật. Sự khai trừ có thể bắt đầu từ ban đầu, từ những chuyện nhỏ nhoi ấy. Nhưng Hồ Chí Minh đủ khôn ngoan và khéo léo hơn tướng Giáp. Ông tuyển chọn một nữ điều dưỡng- xinh đẹp đã đành là bắt buộc- lại lanh lợi và khôn ngoan- để cài vào chăm sóc Nguyễn Bình Người nữ này còn được đào luyện vững chắc chủ thuyết cộng sản để thuyết phục và uốn nắn Bình theo cộng sản. Cái kế mỹ nhân của ông Hồ xem ra thành công. Và để thưởng cho cái công trình uốn nắn ấy, ông Hồ phong cho Bình lên trung tướug năm 1948. Sài Gòn lúc Nguyễn Bình vào miền Nam thì dân chúng cũng khá đông-vào khoảng 2 triệu dân- với một thành phần dân chúng khá phức tạp. Có ngưới Pháp, người Tàu, Người Nhật. Lại thêm Việt Minh và các thành phần đảng phái, giáo phái tranh chấp nhau. Sau đây là tình hình Sài gòn trước khi Nguyễn Bình vào nhận nhiệm vụ. Trước tiên, Việt Minh cướp chính quyền trong tay Mặt Trận Quốc Gia Thông Nhất. Vì còn yếu thế nên họ tung rải truyền đơn như sau - Việt Minh từng sát cánh bên đồng minh, đánh tây, chống Nhựt. - Đối với Nga là bạn. - Đối với Tàu như răng với môi. - Đối với Mỹ chủ trương thương mại, nên không có mộng xâm lăng - Đối với Anh, nội các Attlee mới lên nắm chánh quyền và khuynh tả .. Hồi ký Nguyễn Kỳ Nam, trang 51 Trong truyền đơn này, ta đã thấy để lộ ra cái đuôi cộng sản Nga là bạn, Tàu như răng với môi.. Xin nhớ đây là thời điểm 1945 nhé, khi chưa có quan hệ chính thức với cả Nga và Tàu. Khi dùng chữ Chúng ta ở trên đây là có ý ám chỉ cộng sản đệ tam mà thôi. Họ rải truyền đơn và sửa soạn cướp chính quyền ở miền Bắc cũng như trong Nam. Thật vậy, ngủ một đêm sáng ngày đồng bào Thủ đô thức dậy lấy làm ngạc nhiên trông thấy khắp nẻo đường treo đầy biểu ngữ Chánh quyền về Việt Minh. Hỏi Việt Minh là ai, nhiều người không biết. Ai là chính quyền? Ở Nam Bộ, họ kêu gọi Thanh Niên Tiền Phong gia nhập Mặt trận Việt Minh .. Trong giai đoạn này, trước khi tướng Bình vào Nam Bộ thì Trần Văn Giàu là cán bộ cộng sản chủ chốt và cao cấp nhất. Thủ lãnh nhóm đệ tứ cũng không còn nữa sau khi Tạ Thu Thâu bị giết ở Quảng Ngãi. Trần Văn Giàu tự mình đứng ra tự nhận là người đứng đầu Lâm Ủy Hành Chánh, giải tán Mặt trận Quốc Gia. Ngày 23 tháng chín, một truyền đơn của cộng sản được tung ra Ai còn ở lại Sài gòn là Việt gian, sẽ bị bắt và bị trừng trị. Sau truyền đơn này, dân chúng phải rời bỏ Sài Gòn. Trên đường về miền Tây, miền Đông, dân chúng kéo đi tản cư chặt cả đường phố. Sài gòn! Một thành phố chết. Tiếng súng nổ từng chặp, khắp đó đây. Nguyễn Kỳ Nam, Ibid, trang 80 Sau khi có tiếng súng Nam Bộ kháng chiến rồi lúc đó mới xuất hiện tướng Nguyễn Bình. Thoạt đầu, Nguyễn Bình vào Nam ở miệt Thủ Đầu Một ẩn mình xem xét tình hình, sau đó ông lộ diện, ủng hộ Mặt trận Quốc Gia Liên Hiệp, đảm trách ủy viên quân sự kiêm khu trưởng khu 7.. Nguyễn Bình đã chính thức gửi một lá thư tán thành và ủng hộ Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp trong một số báo bí mật thời đó mà nội dung nay chúng ta ghi lại được như sau -Trong lúc nhìn thấy rõ thủ đoạn của thực dân Pháp, lợi dụng sự chia rẽ, bắt tay với bè phái này phái nọ, miễn sao cho họ quên kháng chiến mà chỉ nghĩ đến sự thù hắn không muốn cho thực dân Pháp lợi dụng nên tôi- Nguyễn Bình- đề nghị lập Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp. Thật ra MTQGLH đã có sẵn trước khi Nguyễn Bình tuyên bốXin xem chú thích. Tại chiến khu Bà Quẹo, một đại hội đã nhóm họp ngày 20 tháng 4 năm 1946 tại bản doanh tướng Huỳnh Văn Trí Cao Đài, có đại diện các đảng phái chính trị, tôn giáo, các cơ quan quân sự, các tấng lớp dân chúng tuyên bố thành lập Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp để tiếp tục cuộc lãnh đạo kháng chiến. Trích Nguyễn Kỳ Nam, Ibid, trang 82 Danh sách các vị trong Mặt Trận Liên Hiệp gồm nhiều thành phần đảng phái, tôn giáo Huỳnh Phú Sổ, Hòa Hảo, Trần Văn LắmVNQDĐ, Lê Văn Tý Cao Đài, Lâm Văn Hậu, Mai Thọ Trấn, Phạm Đình Công thay mặt Nguyễn Bình, Tướng Huỳnh Văn Trí tức Mười Trí Bình Xuyên, Phạm Huy Đức, Nguyễn Văn Sâm Nguyễn Bảo Toàn Quốc dân đảng, Nguyễn Văn Nhân, Linh mục Nguyễ Bá Sảng Nhưng không hiểu vì lý do gì sau này, chính tướng Nguyễn Bình lại muốn thủ tiêu Mặt Trận- một thủ đoạn mà nhiều người quốc gia cho là đã bị Việt Minh lừa. Trong một lá thư trao đổi nội bộ đề ngày 26 tháng 8, 1946, thơ số 210 Nguyễn Bình viết Sau khi Mặt trận Quốc Gia Liên Hiệp ra đời, Ngài cũng có tham gia nữa, Thưa Ngài, tại sao có những thông cáo thủ tiêu MTQGLH ?… Tôi rất khổ tâm, nếu đặt địa vị Ngài vào trách nhiệm của tôi, tôi dám chắc Ngài cũng không thể làm ngoài việc mà tôi đã làm.. Nguyễn Kỳ Nam, Ibid, trang 81 Ngài ở đây chỉ ai? Một cán bộ cộng sản cao cấp ở trên Nguyễn Bình!! Cho đến nay, không ai biết rõ Ngài là ai ? Không một tài liệu cộng sản chính thức của cộng sản đề cập đến vấn đề này .. Nguyễn Bình phải tuân lệnh cấp trên, nhưng là một việc làm trái lương tâm nên ông tự thú nhận Tôi rất khổ tâm. Sau này, mỗi lần Mặt Trận có họp thì Nguyễn Bình đề cử giáo sư Phạm Thiều đại diện thay ông. Về quân sự, lúc đó tướng Bình nắm trong tay 20 chi đội trong Khu 7. Cũng trong thời gian này về mặt quân sự, với 35 ngàn binh sĩ dưới quyền, Leclerc đã bình định xong Nam Bộ. Nguyễn Bình khoanh tay nhìn trong sự bất lực. Một người xuất xứ từ miền Bắc vào Nam đã là khó. Lại còn muốn thu phục mọi quyền lực thu vào trong tay là một điều khó gấp đôi. Khó chẳng những đối với các nhóm giáo phái đã đành mà khó ngay trong nội bộ đảng? Có chỗ nào cho thấy Trần Văn Giàu, Phạm Ngọc Thuần và Lê Duẩn tuân phục? Phần Cédille thấy Nam Bộ đã ổn định về mặt quân sự nên về mặt hành chánh lo thiết lập một chánh phủ Nam Kỳ tự trị. Về điều này, chính VNG cũng phải nhìn nhận trong nỗi bất lực về quân sự trước Pháp. Trong một chuyến tham quan phía Nam về, ông Võ Nguyên Giáp có đến gặp Bảo Đại và ở lại dùng cơm trưa với Bảo Đại đã buồn rầu thổ lộ Chúng ta đành phải chấp nhận sự trở lại của người Pháp .. Chúng ta không còn có cách nào khác .. Ở Nam Bộ, Pháp đã phá hủy toàn bộ tổ chức của chúng ta đã xây dựng với biêt bao nhiêu khó khăn . Nay thỉ họ đã kiểm soát được tất cả .. Rồi chẳng bao lâu nữa , họ sẽ đổ bộ. Làm thế nào để chúng ta có thể chống đỡ lại họ .. Chúng ta chỉ có một số binh đội, nhưng trang bị thì còn thiếu thốn lắm. Cecil B. Currey, Victory at any cost, trang 116 Nam Bộ hoàn toàn dưới quyền kiểm soát của Pháp. Phần Việt Minh, tướng Bình chỉ có 20 chi đội so với 35 .000 quân Pháp, chưa kể không được tiếp tế và trang bị vũ khí. Tướng Bình làm gì được ngoài việc ám sát và khủng bố? Cuối năm 1946, tây đánh mạnh vào chiến Khu D, bộ chỉ huy khu 7 của tướng Bình bỏ chạy. Năm 1947 tạm thời bộ chỉ huy của tướng Bình đành rút về đóng ở Đồng Tháp. Những hoạt động khủng bố, ám sát, thủ tiêu của tướng Nguyễn Bình. Có thể nói, trong cuộc chiến tranh này, cái yếu của Nguyễn Bình là không thể đương cự trực diện với Tây và đã phải rút về trú ẩn ở Đống Tháp năm 1947. Nhưng cái mạnh của Nguyễn Bình là có thể tiến hành một cuộc chiến tranh khủng bố, ám sát có một không hai trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Thời kỳ huy hoàng nhất của tướng Nguyễn Bình là vào thập niên 1950 mà ngoài Bắc thì đã chuyển hướng thành cuộc chiến tranh dàn trận với sự hậu thuẫn của Trung Quốc. Trong Nam là chiến tranh khủng bố, ngoài Bắc là chiến tranh dàn trận với nhiều chiến dịch khác nhau. Và điều này chứng tỏ tướng Nguyễn Bình đã có lúc gây khó dễ cho Pháp không ít. Và cái an bình của thành phố Sài gòn đã có lúc rơi vào sự khủng hoảng kinh hoàng do Việt Minh gây ra. Dư luận Nam Bộ nói chung lúc bấy giờ- người Việt Nam cũng như người Pháp- rất sợ tướng Bình về những hoạt động khủng bố, thủ tiêu người của tướng Bình .. Nhà báo Nguyễn Kỳ Nam viết rằng Nói đến Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp, tôi phải nói đến Nguyễn Bình mà lúc đó ai nghe đến tên Nguyễn Bình là thấy khiếp sợ rồi. Đồng bào Nam Bộ kháng chiến chống Pháp, không hề nghĩ đến cộng sản. Không cộng sản, không Việt Minh, họ cũng vẫn kháng chiến. Nguyễn Kỳ Nam, Ibid, trang 80 Thoạt đầu chính phủ Nguyễn Phan Long đã gửi một thư cho tướng Nguyễn Bình với những đề nghị tìm một giải pháp hòa bình .. Lá thư được đáp lại trên đài Tiếng Nói Nam Bộ của tướng Nguyễn Bình bằng những lời lẽ cương quyết như sau Tất cả các bộ trưởng, công chức cũng như những bọn đầu cơ chính trị phải trả giá. Thời cơ đã đến và cuộc tấn công vào Sài Gòn sẽ xảy ra trong những ngày sắp tới .. Lời đe dọa ấy trở thành sự thật vào đầu tháng giêng, 1950, chiến thắng nằm trong tay tướng Bình. Nên nhớ đây là chiến thắng đối với chính phủ Quốc Gia chứ không phải quân đội Pháp. Ở đây không có cuộc chiến tranh dàn trận giữa những người lính, không có những cuộc nổi dậy của quân đội. Không, bởi vì nếu có một cuộc nổi dậy như vậy thì quân đội Pháp sẽ dễ dàng can thiệp và nhảy vào cuộc..và sẽ đè bẹp ngay .. Ở đây thuần túy là các cuộc khủng bố, các cuộc ám sát người- Và cứ như thế, chẳng bao lâu Việt Minh sẽ làm chủ Sài gòn .. Lực lượng kháng chiến trong bí mật dần dần xuất hiện và trở thành những người chủ tương lai của Sài Gòn .. Đấy là tất cả sách lược của tướng Nguyễn Bình theo lệnh của Hồ Chí Minh. Kết thúc chiến lược ấy là việc ám sát cò Bazin do người của tướng Nguyễn Bình. Vào ngày 28 tháng tư 1950, cò Bazin được chở vào nhà thương trong tình trạng hấp hối. Nhưng cò Bazin là ai? Theo tài liệu viết về Huỳnh Tấn Phát viết như sau về cò Bazin - Sau này tôi mới biết đó là cò Trần Bá Thành, một tên thẩm vấn ác ôn khét tiếng ở bót Catinat. Còn thằng Tây là cò Bazin, chánh mật thám bót Catinat Sài gòn, nổi danh giết Việt Minh thời đó. Lúc này chúng cố lôi kéo mua chuộc trí thức như anh Phát nên cò Bazin ra hiệu cho tôi đến ngồi đối diện với anh. Huỳnh Tấn Phát, Cuộc đời và sự nghiệp, nhiều tác giả, trang 163 Đó là một cuộc ám sát hoàn hảo của một tay chuyên ngiệp. Y mặc một bộ complet, tay sách cặp, thong thả đến trước cửa nhà cò Bazin- lúc ấy vào khoảng 7 giờ 20 sáng-giờ mà có Bazin sắp sửa bước lên xe ô tô đi làm. Như chớp, tên mặc áo vét dở cặp lấy khẩu súng ra và khi còn cách Bazin nột thước. Y bấm cò, bắn nhiều phát. Bazin quỵ xuống .. Và sau đó kẻ ám sát chui vào một xe hơi Traction-avant với đồng lõa biến dạng .. Đám đông nghe tiếng súng nổ chạy toán loạn. Đó cũng là một trong những cuộc ám sát do người của tướng Nguyễn Bình thi hành. Chính tướng Bình đã ra lệnh cho đội ám sát 905 giết Bazin mà trụ sở lưu động của tướng Bình ở cách Sài gòn 8 cây số.. Tướng Bình là thứ người mà bà Nguyễn Thị Liên Hằng trong Hà Nội’s War gọi là loại du côn phong thái giang hồ.swashbuckling. Nguyen thi Lien Hang, Hanoi’s War, trang 26 Nhóm 905 được gọi là những quyết tử quânVolontaires de la mort. Họ được huấn luyện kỹ càng và được coi là những kẻ giết người chuyên nghiệp. Trước khi bị ám sát, Cò Bazin không phải là không biết số phận của mình. Ông chiến đấu chống Việt Minh trước hết là để bảo vệ mạng sống của chính ông. Vì hằng ngày, trên làn sóng điện phát thanh của Việt Minh ra rả mỗi ngày câu đe dọa sau đây Bazin, ngươi sẽ phải đền tội. Bazin, tu vas mourir Cò Bazin hiểu rằng ông đứng đầu danh sách những kẻ mà Việt Minh muốn thủ tiêu. Những kẻ muốn ám sát ông hiện đang có mặt ở Sài gòn và ông không còn bao nhiêu thời gian để khai trừ họ và nếu không làm được thì sẽ đến lượt ông! Ông hiểu cái cái nghề cảnh Sát chìm của ông-nó là một phần đời sống của ông-. Ông nắm giữ trong tay nhiều hồ sơ của những người cộng sản . Nhưng hiện nay, cộng sản như ở khắp nơi trong Saigòn. Người của Nguyễn Bình len lỏi vào trong mọi bộ ngành chính thức của chính quyền. Họ có mặt trong mỗi khu vực, trong mỗi phố, mỗi nhà .. Những người này lấy thông tin rồi tuyên truyền và đi thu tiền bạc ỡ những tay giầu có buôn bán có máu mặt như một thứ thuế máu để đổi lấy sự an toàn của bản thân họ. Trong một thành phố có chiến tranh, những kẻ giầu có luôn là kẻ tài trợ cho nhiều phe phái. Nay Nguyễn Bình đã mang chiến tranh vào trong chính trung tâm Sài Gòn và coi việc ám sát thủ tiêu sẽ là con đường đưa tới chiến thắng, làm chủ Sài Gòn. Và theo Lucien Bodard, tướng Nguyễn Bình đang điều khiển một guồng máy giết người kinh khủng nhất giết từng người và giết hàng loạt- một thứ Ministère de la mort-. Guồng máy ấy tướng Nguyễn Bình trao trách nhiệm cho Lê Văn Linh. Trong tay Linh, y có danh sách đen những người mà y sẽ thủ tiêu. Những người làm việc cho Linh có khoảng vài trăm người được huấn luyện dưới sự huấn luyện của những kẻ đào ngũ gốc Đức. Họ sống rải rác ở Sài Giòn, không giấy tờ, không có súng ống, ăn mặc như bất cứ người nhà quê nào. Nếu bất ngờ có bị mật thám Pháp hỏi thì họ khai bất cứ tên tuổi nào mà không có cách chi tìm ra lý lịch của họ. Họ chỉ có một địa chỉ tìm đến để gặp các đồng chí và khi nhận lệnh thì được cung cấp súng đạn, lựu đạn đã được cất dấu đâu đó. Thi hành xong công tác, họ mau chóng thoát khỏi Sài Gòn về hậu cứ chờ đợi một công tác khác. Mỗi chuyến công tác bao gồm 4,5 người và những công tác ấy thường diễn ra giữa ban ngày hay ngay trong nhà nạn nhân với sự thỏa thuận đồng lõa của đầy tớ trong nhà. Công việc đã được tính toán kỹ lưỡng, điều nghiên từng chi tiết của nạn nhân. Công việc nhiều khi nhanh chóng, giản dị- chỉ chừng vài phút là xong. Và họ ra khỏi Sài Gòn như lúc họ vào Sài Gòn.. Sau cái chết của Cò Bazin. Nguyễn Bình làm chủ Sài Gòn trong hai tháng trời! Lucien Bodard, sơ tóm La guerre d’Indochine, từ trang 443-451 Ngoài những tay ám sát chuyên nghiệp, Viet Minh còn thuê cả trẻ con trong việc ném lựu đạn ..Trong vụ ném lựu đạn vào nhà hàng Cafe restaurant Paix là do hai thiếu niên 15, 16 tuổi khi bị bắt đã khai ra. Chúng được cho 20 đồng và được chỉ dẫn cách sử dụng một trái lựu đạn rồi đem thi hành với lời dọa Không thi hành thì sẽ bị giết. Và hầu như mỗi tuần đều có xảy ra chuyện ném lựu đạn do những kẻ không chuyên nghiệp, không phải Việt Minh.. Nhiều quả lựu đạn đã không nổ.. Việc ám sát và khủng bố của tướng Nguyễn Bình thật ra nằm trong chủ trương và đường lối của cộng sản từ Hồ Chí Minh đến Võ Nguyên Giáp. Tướng Bình chỉ làm theo chỉ thị của cấp trên. Xin trích dẫn tài liệu theo chỉ thị của Hồ Chí Minh mà tác giả cuốn Tôi bỏ đảng ghi lại trong dịp Đại Hội Anh Hùng chiến sĩ thi đua năm 1952 được đón Bác Hồ đến thăm. Bác đã căn dặn như sau Mỗi lần chú giết được Tây hoặc Việt gian thì phải viết giắt cài lên áo công bố tội trạng. Nếu muốn cho xác người chìm xuống thì các chú phải mổ bụng và bổ đôi cái bao tử thì cái xác mới chìm xuống được. Nghe kể chuyện giết người, tôi choáng váng sợ hãi, nhưng rồi cũng phải vỗ tay tán thưởng, ca ngợi thành tích các anh hùng. Những anh hùng này về sau cùngxếp vào một lớp với tôi, có tất cả là 101 sinh viên lớp chế tạo máy . Trong số 101 thì hơn phân nửa lá quân đội biệt phái. Hoang Hữu Quýnh, Tôi bỏ đảng, 1989, trang 108 Bác dặn dò kỹ càng và độc ác tàn bạo đến thế là cùng!! Trong tài liệu của Ban Biên tập Truyền thống Tây Nam Bộ, cũng xác nhận có gây khủng bố như sau Ở Cần Thơ, có Trung đội Ngô Hồng Giỏi được trang bị đầy đủ. Một số cán bộ trở về lập ra Sát gian đoàn, chuyên làm công tác trừ gian, diệt ác tại thị xã. Tháng sáu-1946, Sát Gian đoàn dùng lựu đạn đánh vũ trường nằm trên đường Phan Đình Phùng, Cần Thơ làm chết và bị thương một số sĩ quan Pháp. Sau đó hai mật thám ác ôn bị trừng trị, khiến cho bọn tay sai gián điệp chỉ điểm cùng bọn tề gian ác rất hoang mang. Lo sợ. Ghi lai. Trong Lớn lên với đất nước, Vỵ Thanh, trang 453 Hillaire du Berrier, Background to Betrayal, trang 66-67 Theo tác giả Hillaire du Berrier, ông này cho rằng Bình được huấn luyện tại Moscou và được chỉ dạy những phương pháp giết người. Hillaire du Berrier còn quả quyết một điều đi ngược với tài liệu phía Việt Minh -A point to bear in mind as one stuties everything this iron-willed murderer did thereafter is that in Binh we find the perfect example of the tool of the Russians, able to say in all honesty that he was never a Communist. For Nguyen Binh to the end, never belonged to the party. It was always as a nationalist that shining, overworked word, that he worked. Hilaire du Berrier, Background to Betrayal, trang 65 Sự phủ nhận một cách xác quyết tướng Bình không phải là người cộng sản của tác giả Berrier đặt những người đang ra sức thổi phồng tướng Nguyễn Bình rơi vào một trường hợp khó xử. Sự xác quyết này không phải là không có căn cứ. Tướng Bình thường hành xử một cách tự quyền-nặng óc đàn anh-đàn em, dùng người theo kiểu giang hồ, bất kể thành tích tốt xấu, pha thêm chút máu giang hồ, lưu manh cũng có làm sao chịu gò vào khuôn mẫu kỷ luật của đảng? Võ Nguyên Giáp hẳn nhiên nhận được các bá cáo bất lợi ấy về tướng Bình. Cho nên, dù có cho vào đảng thì củng chỉ là một phương thức để kiềm chế Nguyễn Bình. Vì thế, theo tác giả Nguyên Hùng, tướng Nguyễn Bình, sự thật và huyền thoại xác nhận rằngVũ Huy Xứng là người đã làm lễ kết nạp tướng Nguyễn Bình vào đảng vào tháng 2-1947. Và đến 25-1-1948 được phong trung tướng cùng với 8 người khác H. Berrier còn cho rằng vào năm 1944, những ngày đầu tiên khi còn hoạt động bên cạnh Hồ Chí Minh tại Hà Nội. Tướng Bình đã cùng với Võ Nguyên Giáp ám sát, khủng bố những thành phần quốc gia chống Pháp mà trước đây Bình từng là đồng chí với họ thời năm 1930. Bình và tướng Giáp đả mở những cuộc thanh trừng và sát hại rất nhiều thành phần được coi là Việt Gian. Khi giết những đồng chí Quốc Dân Đảng, phải chăng Nguyễn Bình muốn trả cái thù bị đâm chột mắt khi còn bị giam ở Côn Đảo? Rõ ràng cái gợi hứng ám sát và thủ tiêu những thành phần thù địch, Nguyễn Bình bước đầu cùng đi một con đường với tướng Giáp. Tóm lược Hillaire du Berrier, Background to Betrayal, trang 66-67 Nếu đúng như lời trích dẫn của Bernier thì phải coi tướng Giáp là một loại sát thủ có hạng và được coi là người trực tiếp chỉ huy tướng Nguyễn Bình!!!Nguyễn Bình sau khi nghe tướng Giáp lý luận, ông đã thuận theo và từ nay, ông sẽ làm theo lệnh của tướng Giáp. Anh hãy nghe đây, tướng Giáp nói với Bình Anh là một người quốc gia thông minh. Anh phải đứng chung trong hàng ngũ của chúng tôi nếu không chúng tôi sẽ thủ tiêu những người bạn trẻ của anh. Chúng tôi phải làm như vậy bởi vì họ sau này có thể là những kẻ phản bội . Anh đã biết nếu những người này trở thành những người anh hùng? Bây giờ thì có thể họ chưa là gì, nhưng sau này thì họ sẽ đi vào lịch sử. Bởi vì họ đã làm được một số công trạng trong những năm vừa qua, họ ham muốn quyền lực. Nhưng họ lại không xứng đáng được. Và để đạt được quyền lực đó, họ chỉ có một con đường mà họ có thể làm được. Là họ sẽ cộng tác bắt tay với bọn Quốc Dân Đảng hoặc với Pháp. Họ phải bỏ đi thôi. Hillaire du Berrier, Background to Betrayal, trang 66-67 Cho nên, nhìn toàn diện các hoạt động khủng bố, ám sát ở những ngày đầu cuộc kháng chiến, ta phải coi tướng Giáp là người chủ trương như nhận xét của Robert J O’ Neill - Tướng Võ Nguyên Giáp chịu tất cả mọi trách nhiệm trong khi Hồ Chí Minh vắng mặt về việc sát hại hằng trăm các nhà chính trị dám chống lại Việt Minh, phá hại tất cả các tổ chức nào xem ra có thể cạnh tranh với Việt Minh cũng như cấm đoán mọi tờ báo nào xuất bản mà không có sự kiểm soát của Việt Minh. Ông cũng đã thiết lập được một quân đội từ lên cũng như một đơn vị tự vệ từ các thường dân… Robert J O’ Neill, General Giap Politician & Strategist, trang 44 Tại sao những cán bộ Việt Minh thời 1945 cho đến nay 2013 vẫn không đả động gì đến những vụ khủng bố, ám sát tàn bạo dành cho những thành phần đảng phái và không đảng phái, thành phần tôn giáo do sự chỉ đạo của tướng Võ Nguyên Giáp? Ông Nghiêm Kế Tổ đã ghi lại một cách chi tiết như sau -Số nạn nhân Việt gian lên đến hàng ngàn, hàng vạn. Giam cầm, đầy ải hoặc thủ tiêu? Chẳng ai biết, chẳng ai hay. Được thể dân quân du kích, Công an hay Ủy ban kháng chiến cứ việc bắt bớ thẳng tay, không thương tiếc. Tâm lý bắt Việt gian và tâm lý sợ Việt gian trong vùng Việt Minh kéo dài từ 1946 mãi đến năm 1948 mới tạm dịu sau khi xảy ra một vụ bắt Việt gian kinh thiên động địa tại Việt Bắc. Vụ Tổng kiểm soát, hay nói bằng một danh từ mới và thích hơp hơn vụ ráp vĩ đại cả Bắc Việt lẫn Liên khu IV nửa nước VN đã làm cho hàng ngàn dân chúng chết oan uổng và hờn giận. Không phải riêng dân chúng bị bắt, bị tra tấn, bị thủ tiêu, ngay đến cả trong quân đội, trong đoàn thể, trong hàng ngũ cộng sản, số sĩ quan, nhân viên và đảng viên chịu cực hình cũng nhiều không kém. !! Nghiêm Kế Tổ, Việt Nam Máu lửa, trang 130-131. Cho đến khi đang viết những dòng nảy, tôi vẫn không hiểu được những lệnh thủ tiêu, giết người Quốc Gia là theo lệnh của tướng Võ Nguyên Giáp- bằng cớ rõ ràng là như thề-. Nhưng dư luận phương Tây cũng như Việt Nam, hình ảnh của tướng Giáp vẫn được coi là một người anh hùng, một tướng lãnh với tài cầm quân, mặc dầu ông đã nướng không biết bao nhiêu sinh linh các chiến sĩ chết dưới quyền của ông- một đổi lấy bốn hay năm mạng người lính-. Thật không hiểu được! Trong khi tướng Bình ở Nam Bộ cũng ám sát, cũng thủ tiêu thì nhận rất nhiều tai tiếng!! Trung tướng Nguyễn Bình Tướng Bình được giao trách nhiệm vào Nam bộ, ông có nhiệm vụ là hợp nhất nhiều thành phần hỗ tạp lẫn lộn trong nhóm Bình Xuyên và thống nhất các lực lượng Cao Đài, Hòa Hảo trong việc chống lại người Pháp. Sau cái chết của cò Bazin, Saigon nằm trong tay Nguyễn Bình. Và các cuộc khủng bố ấy tiếp tục kéo dài..Phố xá vắng hoe, kiều dân Pháp không dám ra ngoài đường. Rồi lần lượt nhiều Pháp kiều đã gục ngã sau Bazin như các vụ ám sát các kỹ nghệ gia chủ hãng thuốc lá- chủ đồn điền cao su- viên chức và nhà buôn. Họ bị giết trong nhà, chết ở ngoài đường, thây bị vứt ở một góc phố nào đó có tấm bảng treo ở cổ. Đó là sự khủng bố trắng gây kinh hoàng cho mọi người . Lucien Bodard, La guerre d’Indochine, tóm sơ lược từ các trang 446-464 Người Pháp hầu như bất lực trước những cuộc ám sát của Nguyễn Bình. Theo một hai người bạn lớn tuổi nhớ lại ký ức về giai đoạn đó kể lại rằng Chỉ cần thủ một quả lựu đạn vào một rạp cine chỗ đông người, thảy trái lựu đạn rồi biến mất để lại một khung cảnh kinh hoàng người chết, người bị thương. Berrier mô tả thêm -Binh murderd more people, with more brutality, than any Oriental since Genghis Khan, and did it as America’sprotege as well a Ho Chi Minh’s and the Russia’s....No man has a right to be neutral . If he neutral, kill him.. Hillaire de Berrier, Ibid, trang 67 Hàng ngày đài tiếng nói Nam Bộ rao truyền sự hận thù và sự kinh hoàng bằng cách đọc tên những thành phần sẽ bị thù tiêu trên một danh sách có sẵn. Nhưng mọi chuyện đã mau chóng thay đổi, đem lại một không khí an bình giả tạo cho bộ mặt Sài Gòn. Phải đợi đến khi thủ tướng Trần Văn Hữu họp báo và tuyên bố giao ngành an ninh cho một viên cựu đốc Phủ Sứ, tên Tâm- người được coi là hùm xám Cai Lậy. Từ đây mọi chuyện bắt đầu đổi khác. Việc đầu tiên, Tâm làm sạch nội bộ ngành công an tìm ra một viên thứ ký là người của Việt Minh gài vào .. Mọi tin tức dù mật đến đâu đều lộ ra ngoài đều do người thư ký này bá cáo cho tướng Nguyễn Bình. Tâm khai thác, hỏi cung và khi khai thác xong, tìm ra đường giây đầu mối qua viên thư ký này xong. Tâm thẳng tay mang ra xử bắn ngay trong ngày và sau đó bất cứ một nghi ngờ nhỏ nào mà trùm Cai Lậy biết được thì cũng là nguyên cớ để lôi ra tra khảo bằng đủ loại cực hình. Phải nói sự tra tấn hoàn toàn bất nhân và bằng những hình cụ độc ác nhất!! Tâm làm việc có kế hoạch, thu được nhiều tin tức, sẵn sàng chi tiền lấy tin tức. Tâm bỏ ra để lấy tin tức từ một người chỉ điểm chỗ ỡ ở của Lê Văn Linh. Tâm bắt giam người đó và cho biết nếu chỉ đúng thì có ngàn, nếu chỉ sai thì chỉ có chết. Tâm sau đó đã mở cuộc vây bắt Linh. Y còn đang ngủ. Lục soát đằng sau một tủ sách mà đằng sau dấu những khẩu súng liên thanh, súng lục từng dùng để đi ám sát. Ở một phòng khác đầu đủ hồ sơ những ngưởi sẽ bị thủ tiêu với ngày giờ thi hành. Và một hồ sơ lớn đầy đủ về chính ông Tâm. bắt trọn ổ 4 người của tướng Bình mà người đứng đầu là Lê Van Linh. Lê Văn Linh được coi như cánh tay mặt của tướng Nguyễn Binh ở tại một biệt thự đường Frères-Louis. Linh bị bắt không kịp chống cự. Khám phá nhà Linh còn bắt được một Hoa Kiều bị Linh bắt giam, đòi tiền chuộc mạng với giá một triệu đồng. Ông Tầu trả công thưởng đồng cho Tâm. Tâm lấy số tiền đó trả cho người chỉ điểm .. Từ những người vừa bị bắt, Mai Hữu Xuân- một thứ sản phẩm của trùm mật thám Bazin từ trong huyết quản-ông trùm của mật thám- và sau này cũng là người được lệnh thanh toán anh em ông Ngô Dình Diệm năm 1963. Và ngay ngày hôm sau Mai Hữu Xuân bắt trọn ổ 40 người khác của Nguyễn Bình. 19 ngày sau, một tên trùm Việt Minh chuyên ám sát bị tóm ở một biệt thự khác, đường Luro tên Van San .. Việc bắt trọn ổ này là công khai thác, mua bán tin tức mà người Pháp gọi là La vente des tuyaux, Kết quả mẻ lưới của Tâm-Xuân bắt được cả thẩy khoảng 100 người của tướng Bình. Kể như hệ thống khủng bố và ám sát của tướng Bình bị xóa sổ. Cũng theo nhận xét của Philip B. Davidson nhận xét về ông Tâm như sau Cái ngưởi có thể đánh bại Bình là một người vóc dáng nhỏ thó, già, một thứ cảnh sát đã hết thời mà trước đây có tiếng là sát thủ và hùm Cai Lậy. Chỉ trong vài tuần lễ, Tâm phá sạch mạng lưới tình báo của Bình bằng cách tra tấn những tình báo viên bị bắt, Tâm bắt giam hoặc thủ tiêu những phe đảng của nguyễn Bình. Cho đến giữa năm 1950, Tâm đã có thể quét sạch bóng dáng của Bình ra khỏi Sải Gòn. Philip B. Davidson, Ibid, trang 82 Tâm không đưa những kẻ khủng bố ra tòa án VN vì các ông tòa Annam sợ không dám xử, sợ bị Việt Minh trả thù. Tâm đưa thẳng các bị can cho tòa án Tây xử. Các tòa án Tây xử theo luật có từ thời Nhật đặt ra rất khắt khe- bị can chỉ có thể rơi vào hai trường hợp Hoặc số 76 hoặc số 83. Giữa hai số đó có sự khác biệt lớn lắm. Chẳng may rơi vào số 76 là nhận án tử hình và 83 là tù chung thân. Việt Minh qua tướng Bình đã thất bại trong cuộc chiến tranh khủng bố và phá hoại ở Sài Gòn, không phải với người Pháp mà với cặp Tâm-Xuân. Tại sao Tâm làm được việc xóa sổ người của tướng Bình? Và đã có thể phá tan hệ thống khủng bố ấy trong thời gian vài tháng? Trong khi các tổ chức đảng phái Quốc Gia như Quốc Dân Đảng, Đại Việt đã bó tay trước các cuộc tàn sát và khủng bố của tướng Giáp ở ngoài Bắc? Chính thức, tôi dựa vào tài liệu của Lucien Bodard vì tác giả có được các bút ký của tướng Nguyễn Bình viết mỗi ngày khi bị VNG gọi ra Bắc .. Đây là tài liệu khả tín do Phòng Nhì Pháp có được sau khi khám xét thi thể tướng Bình lúc bị thảm sát ở Campuchia. Những bút ký ghi lại ấy chẳng khác những di chúc để lại cho vợ ông và cho biết những âm mưu muốn triệt hạ ông. Phần tài liệu về phía Việt Nam có rất nhiều. Nhưng không dùng được vì chỉ là sách vở tuyền, che dấu sự thật, cắt xét phần bút ký của tướng Bình trên đường ra Bắc Cho đến nay, câu hỏi đặt ra ai giết tướng Bình vẫn là một câu hỏi .. Nhà báo Bùi Tín trong một dịp trả lời phỏng vấn cũng đặt câu hỏi ai giết tướng Nguyễn Bình, trung tướng tư lệnh Nam bộ? Bảy Viễn và Bình Xuyên đối đầu với tướng Nguyễn Bình Bảy Viễn là một nhân vật huyền thoại mà cuộc đời của ông ta còn vượt hơn cả những nhân vật truyện trong các phim ở Holywood. Ông ta là kết tinh của tinh thần yêu nước và tướng cướp, kết tinh giữa cái hào hiệp và sự thanh toán dã man. Trong Bảy Viễn có cả cái tốt lẫn cái xấu, chất giang hồ hảo hán và cả lòng yêu nước. Ông chống Pháp, nhưng trấn lột những nhà giàu, bắt những kẻ giàu có đóng thuế để nuôi đám đàn em. Ông phạm nhiều tội ác như giết người, nhiều thủ đoạn trái pháp luật. Vì thế, con người huyền thoại ấy tiêu biểu cho giới giang hồ miền đất Nam Bộ. Một thứ anh chị nổi lên từ criminal background trong thời chiến. Không lạ gì, một sinh viên người Pháp, anh Pierre Debezies đã làm hẳn một luận án tiến sĩ Luật và đã đưa ra một nhận xét khá chính xác như sau về con người Bảy Viễn Bảy Viễn chắc chắn là một khuôn mặt kỳ lạ nhất ở miền Nam Việt Nam. Làm thế nào mà một tên cướp xa lộ bị săn đuổi bởi nhà cầm quyền qua những vùng lầy ở Soài Rạp mười năm trước đây nay có thể có một địa vị như anh ta có được ngày hôm nay. Hillaire du Berrier, Ibid, trang 55 Bảy Viễn vốn chỉ là dân giang hồ, ăn cướp và từng bị án 12 năm tù ở Côn đảo. Nhưng mới thụ án được 4 năm thì Bảy Viễn đã tố chức đóng bè và trôi dật về bờ biển Phan Thiết. Sau đó lại bị tù ra Côn Đảo trong một vụ cướp. Án tù là 12 năm cộng với 8 năm chưa thi hành, nhưng ông lại vượt ngục với Mười Trí. Thành tích duy nhất là những lần vượt ngục Côn Đảo. Khi trở Bảy Viễn vượu ngục từ Côn Đảo về Sài gòn thì tình hình rất lộn xộn. Nhật cướp chính quyền, rồi đầu hàng. Bảy Viễn gặp lại Ba Dương, Maurice Thiên và cùng với Mười Trí lập bộ đội..tự nhận là Ủy viên quân sự. Ngày xưa là dân giang hồ nay nghiễm nhiên là chiến sĩ, là ủy viên quân sự dưới quyền có khoảng 100 người. Sau khi Ba Dương bị sát hại trong một cuộc càn của Pháp thì cuối cùng Bảy Viễn được Nguyễn Bình đề cử khu phó và Bảy Viễn đóng trụ ở Rừng Sác.. Theo tài liệu của Huỳnh Tấn Phát cho thấy Việt Minh có mở lớp huấn luyện cán bộ cho Bình Xuyên tại Rừng Sác- Rừng Sác là căn cứ địa và chiến khu của Bảy Viễn- Anh Pham Ngọc Thạch cùng tôi vào Vũng Tàu và anh giao cho tôi mở lớp huấn luyện cho tân binh ở Bà Rịa, còn anh đến Phước An, Rừng Sát tìm hiểu tình hình Bình Xuyên và công tác tại đây một thời gian. Sau đó anh bảo tôi về Bình Xuyên mở lớp huấn luyện cho bộ đội của anh Ba Dương Văn Dương, Tám Mạnh và Dương Văn Hà, những cán bộ vững vàng và trung kiên. Huỳnh Tấn Phát, Ibid, trang 146 Mặc dầu Bảy Viễn nhận được nhiều hứa hẹn từ phía Nguyễn Bình như cho làm Trưởng Khu 7 hiện là khu phó, nhưng Bảy Viễn do dự yên lặng vì ông ta thích cái tự do, không chịu nằm dưới chướng của ai và làm chủ những vùng lầy bãi sậy- một thứ trùm băng đảng thu thuế cho băng đảng của mình-. Bảy Viễn có giang sơn của mình. Giang sơn nào anh hùng nấy, đúng tinh thần dân Nam Bộ; anh hùng hảo hớn.. Ngoài ra quyền lợi thu thuế khu vực Sài Gòn Chợ lớn cũng không phải nhỏ mà hai bên thường dẫm chân lên nhau. Nguyễn Bình cũng muốn nắm trọn quyền thu thuế, Bảy Viễn cũng có cơ sở, có đàn em và không muốn mất phần. Dưới tay Bảy Viển có nhiều cố vấn có học như bọn Lâm Ngọc Đường và Maurice Thiên. Lại thêm có nhà trí thức Trần Văn Ân làm cố vấn chính trị. Bọn này không đời nào để Bảy Viễn mắc vào cái bẫy của Việt Minh dăng ra qua tướng Bình .. Bọn Tài, Sang- tay sai của phỏng nhì Pháp, một loại cố vấn cũng nhất định tìm cách ngăn cản Bảy Viễn xuống Đồng Tháp nhận chức khu trưởng khu 7. Đã hơn ba năm rồi, tình trạng giữa Bảy Viễn và tướng Bình vẫn nhì nhằng và cũng xảy ra nhiều đụng chạm giữa đôi bên. Có nhiều dấu hiệu cho thấy Bảy Viễn ngả theo Tây như các giáo phái.. Bảy Viễn khai trừ cán bộ miền Bắc trong khi đó thì hai lần tướng Nguyễn Bình mưu toan ám sát Bảy Viễn bất thành .. Nhưng Bảy Viễn do cái máu lang bạt, do tự ái anh hùng hảo hớn cứ nhất quyết đi dự phiên họp do Tướng Bình mời. Bảy Viễn cẩn thận mang theo hai đại đội đi theo. Buổi họp ấy có đầy đủ chức sắc lãnh đạo của Việt Minh như Phạm Ngoc Thuần, Lê Duẩn. Thuần đã ép Bảy Viễn giải tán Bình Xuyên. Việc yêu cầu giải tán Bình Xuyên là một yêu cầu mà Bảy Viễn không thể chấp nhận được. Trước khi ra về Bảy Viễn dứt khoát Không đời nào!! Tướng Bình nhân dịp này muốn bắt Bảy Viễn, nhưng đã bị Lê Duẩn cản nên Bảy Viễn được thong thả ra về. Trong khi đó thì hai ông Thiên và Đường- phụ tá của Bảy Viển- đã tiếp xúc với tướng De la Tour là nếu một khi Bảy Viên kéo quân về thành. De la Tour sẽ ra đón Bảy Viễn ngay cửa ngõ vào Saigòn với tất cả nghi lễ dành cho một tướng lãnh Bình Xuyên về với chính nghĩa Quốc Gia!! Từ chối hợp tác với Nguyễn Bình, Bảy Viễn còn có con đường nào khác? Nguyễn Bình đương nhiên nghi ngờ Bảy Viễn và tìm cách cho người xâm nhập vào tổ chức và phá tổ chức của Bảy Viễn. Khi biết Bảy Viễn có liên lạc với Pháp thì Nguyễn Bình muốn trừ khử Bảy Viễn. Và theo tài liệu của Hillaire du Berrier, đã có lần lấy cớ ngày sinh nhật Hồ Chí Minh, Nguyễn Bình tỏ ý muốn gặp Bảy Viễn tại bộ Tham Mưu của mình. Bảy Viễn nhận lời và mang theo 200 cận vệ dữ dằn nhất của mình để nếu cần cứu nguy và giết Nguyễn Bình khi có dấu ra lệnh. Khi vào bên trong lều, Nguyễn Bình nói với Bảy Viễn ông phản bội chúng tôi, nhưng tôi sẵn lòng tha thứ cho ông và đặt tay lên vai Bảy Viễn và ôm ông ta. Đúng lúc ấy thị bọn đao phủ đột nhập vào lều chỉ huy định ám hại Bảy Viễn. Bọn cận vệ của Bảy Viễn can thiệp kịp thời và bảo vệ cho Bảy Viễn rút lui. Sau việc này, Bảy Viễn sai Lai Hữu Tài như một thư ký riêng đến gặp người Pháp và yêu cầu được cung câp súng đạn để dẹp Việt Minh ra khỏi khu vực. Ngay cả khi chưa nhận được sự ưng thuận của Pháp, Bảy Viễn cho đàn em thanh toán người của Nguyễn Bình tại các khu chiếm đóng của Việt Minh một cách khủng khiếp. Xác người chết trôi sông không được trình báo. Bảy Viễn được Savani cho người tiếp xúc và lien6b lạc kín đáo và họ đã có một thỏa thuận vào ngày 16-8-1948. Đến năm 1951 thì lại có thỏa thuận với Bảo Đại và được độc quyền khai thác trỏng lãnh vực Cờ bạc, buôn thuốc phiện lậu và gái điếm. Nổi tiếng với sòng bạc Đại thế giới. Và chẳng bao lâu sau, uy tín của Bình Xuyên lên cao, Bảy Viễn trở thành một thứ Robin Hood Việt Nam. Kể từ khi Bảy Viễn nắm quyền, xe đò chạy đường Sàigon- Vũng Tàu thong thả, không bị quân của tướng Bình chặn bắt và đóng thuế. Sài gòn nói chung dưới sự quản lý của Bình Xuyên, Pháp kiều cũng như dân chúng có thể đi chơi đêm mà không sợ bị giết .. Không còn những xác người vứt bên vệ đường với án tử hình treo nơi cổ như một đe dọa những kẻ khác. Dân chúng được sống an bình trong vài năm cho đến khi Thủ tướng Ngô Đình Diệm về nước.. Trước những thất bại của các tổ ám sát, tướng Bình đã liều lĩnh tổ chức các cuộc tấn công các đơn vị quân đội Pháp tại các tỉnh, nhưng đã không thành công và tướng Bình cũng đã đụng phái một viên sĩ quan Pháp- một sĩ quan đã gặt hái được nhiều thành công vì tài chỉ huy, vì kinh nghiệm chiến trường và biết lấy lòng dân quê. Đó là tướng Chanson. Binh lính Pháp đi đến đâu là làm công tác xã hội đến đấy để lấy lòng dân!! Nguyên nhân thất thất bại của tướng Nguyễn Bình ở miền Nam Tôi đã có dịp viết một bài với nhan đề Kháng chiến Nam Bộ đi trước mà về sau. Sơn Nam cũng phản ánh một nhận xét tương tự Phải phản ảnh tình hình Nam Bộ, kháng Pháp đi trước miền Bắc và Nam Bộ quá xa xôi, khó được cơ may gặp cụ Hồ như ở ngoài Bắc. Cần chứa đựng nỗi ray rứt độc đáo của Nam Bộ . Hồi Ký Sơn Nam, Từ U Minh đến Cần Thơ Kháng chiến khởi đầu ở Nam Bộ, đi một bước trước, vậy mà sau này- bởi vì thiếu những điều kiện khách quan đã là cớ sự cho sự thua trận trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Đây cũng là một thực tế chiến tranh mà không mấy sách vở tài liệu chiến tranh nào của miền Bắc đề cập đến điều này .. Riêng tướng Giáp qua những sách mà đại tướng đã viết ..Người đọc có cảm tưởng chiến tranh Dông Dương chỉ xảy ra luẩn quẩn tại miền Bắc và bên Lào. Một nửa phần đất phía Trung và Nam Bộ hầu như không có chiến tranh? Yếu tố địa lý Miền Nam là một miền đất mới- khác hẳn miền Bắc về địa lý, dân số, xã hội và tôn giáo ..Nói chung đó là một xã hội mở theo nghĩa khả năng thích ứng và hội nhập rất là mạnh. Nó cũng là miền đất được thiên nhiên ưu đãi, đất rộng bao la mà người thưa. Thời Minh Mạng, người ta phải đo ruộng đất bằng Dây thay vì thước tấc. Một dây có diện tích co dãn từ 5 đến 10 mẫu ta, qua câu ca dao Đất năm dây cò bay thẳng cánh Anh dám hỏi nàng quê quán ở đâu Sơn Nam, Đất Gia định xưa, trang 64 Miền đất Nam Bộ- miền đất mới- địa giới phân chia làng xóm lại lỏng lẻo, nhà nọ cách nhà kia xa- Mỗi đơn vị nhà cửa mang tính tự lập và không nằm trong khuôn khổ tập tục, xã hội làng xã. Dân làng phần lớn hỗn tạp, dân du nhập đủ thành phần, chẳng theo phép tắc nào cả, nếp sông trôi sông lạc chợ, ở rồi đi, đất rộng người thưa rất khó gom dân lại đễ tổ chức làng xã theo tập tục, nề nếp. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa cũng gặp trở ngại gom dân trong các ấp chiến lược và không mấy thành công. Sơn Nam trong sách của ông viết - Dân U Minh thưa thớt, thiếu tổ chức, Cách Mạng xuống đó làm gì cho mệt, muốn vậy, phải xuất phát từ tỉnh lỵ Rạch Giá này mới có hiệu quả. . Nghĩ vậy, tôi tự hào một mình rằng đã có trình độ, đúng hay sai chưa biết. Có gì động tĩnh, chỉ lên chiếc xuồng Ba Lá, chốc lát vèo một cái là đã mất hút vào không gian vô tận . Hồi ký Sơn Nam Ibid, trang 158 Vậy thì quân ở đâu mà rải ra khắp nơi khắp chốn? Vì thế, nếu Việt Minh sống ở các vùng Cần Thơ, Vĩnh Long, Rạch Giá thì có cái ăn, nhưng không có chỗ ẩn náu an toàn. Bị Tây càn là vô phuong trốn chạy. Cho nên, muốn an toàn phải đi xuôi nữa đi sâu nữa vào vùng U Minh .. Đó cũng là căn cứ địa của Khu 9. Miền Nam chỉ có cái lợi thế địa lý khi đi sâu vào miệt phía Đông Nam Sài Gòn hay miệt Cà Mâu vì ở đấy có những loại cây tràm mọc dưới nước mà không dễ gì len lỏi vào được .. Và phải dùng thuyền nhỏ. Vì thế nó cũng trở thành nơi trú ẩn an cho các lực lượng kháng chiến miền Nam trong nhiều thập niên. Philip B. Davidson, Ibid , trang 39 Trong khi đó, làng xã miền Bắc là những đơn vị kinh tế, xã hội, tôn giáo, lịch sử, phong tục- một xã hội khép kín- bao bọc bởi lũy tre, làng nọ sát làng kia, nhà nhà san sát nhau chia ra rừng xóm như xóm trong, xóm ngoài, xóm trên, xóm dưới .. Chính ở chỗ đó dễ kiểm soát dân làng.. Khi Việt Minh về, chỉ cần mấy du kích vào làng bắt đi ông lý trưởng và vài chức sắc là nắm tóc được cả làng. Dân làng sợ hãi riu ríu nghe theo, chó không dám sủa, trẻ con không dám khóc. Kinh nghiệm cá nhân của tôi là khi Việt Minh nổi dậy, họ vào bắt ông Lý Chân-lý trưởng của làng tôi- chẳng biết ông có tội tình gì- và dẫn đi biệt tích .. Bố tôi, chỉ là một ông Trùm, chức phận nhỏ bé, không làm một điều xằng bậy gì, chỉ lo phận sự hàng xứ, lễ lạc cho họ đạo. Ông cũng bị đi tù giam ở trại Lý Bá Sơ. Chỉ có cái may là sau một năm tù, ông sống sót trở về. Nhưng nào đã hết, anh tôi du học ở ngoại quốc về- ở địa phận Hà Nội- tội tình gì bị xử án giam tù cộng chung tất cả hơn 20 năm, lên tận Cổng Trời, nằm Hỏa Lò.. Vào miền Nam đến lượt các anh rể tôi, các cháu đi cải tạo. Tính chung gia đình chúng tôi cống hiến cho cách mạng trên 100 năm tù!! Tôi vẫn tự hỏi, chúng tôi tội tình gì. Dân chúng tôi tội gì mà bị những tên đao phủ hành hạ đến như thế !! Địa lý miền Bắc với núi cao hiểm trở, rừng khắp nơi là chỗ trú ẩn an toàn cho kháng chiến .. Các trận chiến thắng có tính cách quyết định cho tướng Giáp đều xảy ở các nơi núi cao hiểm trở, như chiến thắng trong chiến dịch biên giới, chiến thắng Điện Biên Phú. 80% lãnh thổ miền Bắc là rừng, núi thay đổi từ rừng thưa đến dầy đặc. Những cánh rừng bao phủ, che đậy những hoạt động của Việt Minh ở bên dưới. Nó cũng che dấu các kho vũ khí, đạn dược. Nó cũng là những nơi ẩn lánh lý tưởng cho bộ độ với nhiều lùm cây, bụi rậm.. Vì thế, Pháp khó có thể tiến hành những cuộc tấn công hoặc lục soát mà không bị tổn thất nặng nề vì bị phục kích … Philip B. Davidson, Viet Nam at war, The History 1946-1975 Và người ta cũng nhận thấy rằng các cuộc tấn công của Việt Minh phần lớn đều phải dựa theo mùa. Đó là thời gian lý tưởng cho các cuộc hành quân ở miền Bắc từ giữa tháng 10 đến giữa tháng năm.. Thống kê cho thấy 19 cuộc tấn công vào quân đội Pháp do tướng Giáp điều động đều xảy ra trong thời gian này trên tổng số 26 cuộc tấn công. Điện Biên Phủ đã diễn ra cũng trong thời điểm này .. Tết Mậu Thân sau này cũng vậy. Yếu tố cá tính dân miền Nam Tôi hồi tưởng lại hai biến cố cải cách ruộng đất và Nhân Văn Giai phẩm ở miền Bắc vào đầu thập niên 1950. Tôi tự hỏi làm cách nào người cộng sản đã có thể chà đạp con người, khinh rẻ nhân phẩm con người từ người nhà quê đến một người có học vấn đến như thế? Làm thế nào mà người cộng sản có thể bắt người bố gọi con dâu bằng bà và xưng con, còn cô con dâu xưng bà với bố chồng? Tôi không nói đến những thiệt hại vật chất đã đến với những người địa chủ lớn nhỏ vô tội, nhưng tôi thấy họ đã biến những người nông dân hiền lành trở thành một bọn côn đồ, bọn cướp ngày. Còn những nạn nhân như các địa chủ, các nhà văn lớn nhỏ thì sợ hãi nhút nhát như con giun, con dế, van xin, lạy lục để được tha, để được yên thân. Bây giờ thì người cộng sản tự họ lãnh cái hậu quả của những tên công an đang hành hạ người dân cả nước..Những nhà thơ, nhà văn trong nhóm Nhân Văn Giai phẩm- mặc dầu không thể không kính nể họ- vẫn thấy họ hành xử nhát sợ như những con run, con dế!! Tại sao tướng Nguyễn Bình đã có thời làm mưa làm gió ở miền Nam lại bó tay thua cuộc? Bởi vì cá tính dân miền Nam quen tự lập, quen sống nếp giang hồ, không chịu ép mình làm tôi tớ cho một người- dủ là tướng ở miền Bắc vào- cưỡi đầu cưỡi cổ-. Thật vậy, Sau 1975 thì tôi càng nhận thức một cách rõ rệt, đã nhận ra cái cá tính dân miền Nam, nó gìn giữ dân miền Nam đứng vững trên hai đôi chân của mình .. Không phải những khu vực như Dốc Mơ, Gia Kiệm, Xóm Mới là những thành trì chống Cộng vững chắc !!. Chính những nơi này –do có tổ chức, có lỷ luật trên bảo dưới nghe- lại tỏ ra dễ bảo hơn các thành phần xã hội khác. Sau 1975, người ta càng thấy rõ yếu tố cá tính người dân miền Nam đã làm ung thối các chính sách đi kinh tế mới, các buổi học tập dân phố, các chính sách đánh tư sảnvv Nếu chính sách xã hội hóa miền Nam gặp khó khăn và trở ngại là do thành phần đa số dân miền Nam rất ngang bướng, rất khó bảo. Hãy thử nhìn lại, chỉ 20 năm sau vài trăm ngàn người sĩ quan và công chức cũng như gần 300 nhà văn nhà thơ của miền Nam bị tù tội, bị đi cải tạo. Đã có bao nhiêu người tỏ ra yếu hèn viết những cuốn sách thú tội, tố cáo nhau hoặc tố cáo tội ác Mỹ Ngụy của miền Nam Việt Nam không ?Những Trần Văn Tuyên, những nhà thơ như Vũ Hoàng Chương cho đến lúc chết nào họ có nửa lời biếm nhã với miền Nam ?? Điều gì làm nên sự khác biệt giữa hai giai đoạn dưới sự thống trị của cộng sản? Nếu không phải là cá tính người dân miền Nam nói chung- Bắc 54 nói riêng và miền Nam? Cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa Xã Hội ở miền Nam là một sự thất bại hoàn toàn, nhưng nó lại có thể điều động, khuất phục hàng triệu người miền Bắc như những con cừu? Người ta còn nhớ trong buổi họp chiêu dụ Bảy Viễn, trước mặt bá quan văn võ, trước mặt tướng Nguyễn Bình, Bảy Viễn chửi và nói thẳng ông ghét người miền Bắc. Bảy Viễn đứng thẳng lên không nhìn chủ tọa mà ngó ngay Nguyễn Bình Trước khi trả lời bốn điều thắc mắc của Khu trưởng Nguyễn Bình, tôi xin nói thẳng điều này, cá nhân Bảy Viễn không tin người Bắc, Tôi cũng không khoái mấy cha chính trị viên.. Khi mới lập bộ đội, gian khổ chết chóc thì không thấy các cha đâu, khi bộ đội thành nề nếp, có đại đội, có tiểu đoàn rồi thì các cha vác mặt tới đòi chia quyền chỉ huy.... Tôi không tin khu, tôi về đây không phải vì chức khu trưởng các ông dành cho tôi. Thật ra đây là kế điệu hổ ly sơn nhằm tách tôi ra khòi chiến khu Rừng Sác. Đây là hạ sách, đứa con nít cũng biết.. Nguyên Hùng, Bảy Viễn, thủ lỉnh Bình Xuyên, trang 196-197 Cái cung cách Bảy Viễn, cái ngang tàng của Bảy Viễn đối với Việt Minh cũng là điều mà dân miền Nam đáp trả lại cộng sản sau 1975. Một tính khí- một con người- một miền Nam. Phải nhìn nhận có một yếu tố nào đó làm cho người dân miền Bắc và miền Nam có hai lối ứng xử khác nhau trước bạo quyền. Tôi nghĩ đó là do cá tính con ngưởi miền Bắc khác miền Nam … Miền Bắc có nêp sống văn hóa quy củ, đã đi vào nề nêp, biết tôn trọng lễ nghi, tập tục và pháp luật nên dễ uốn mình theo kẻ cầm quyền. Đứng ở một mặt nào đó, cá tính dân miền Nam thể hiện ra qua con người Bảy Viễn. Hành xử giang hồ, dẫm đạp lên pháp luật nên coi trời bằng vung. Bảy Viễn đã sẵn sàng đối đầu với kẻ cầm quyền, chỉ sẵn sàng nói chuyện phải quấy với kẻ biết điều và nếu không được thì chẳng ngại đối đầu trước một viên tướng khét tiếng hung thần như tướng Bình? Yếu tố tôn giáo Nhưng quan trọng hơn cả là lực lượng Bình Xuyên và hai giáo phái Cao Đài Hòa Hảo đã là những khu tự trị hầu như bất khả xâm phạm. Đó là những mẫu mực tôn giáo đến lạ lùng. Nó pha trộn các giá trị, niềm tin tín ngưỡng tôn giáo với mê tín và chính trị đến không hiểu được. Nhân vật giáo chủ được huyền hoặc đến độ coi ông Huỳnh Phú Sổ là bất tử, súng đạn bắn không chết. Vì thế khi ông bị Việt Minh ám hại, các giới chức sắc không làm thể nào giải thích về cái chết ấy cho lọt tai .. Người Tây Phương không hiểu được họ nên gọi họ một cách khinh miệt là những ông đạo khùng. Các vùng Hòa Hảo, Cao Đài và Sài Gòn –Chợ Lớn của Bình Xuyên hầu như là những khu tự trị- nội bất xuất, ngoại bất nhập-. Người Pháp không tốn một viên đạn, một tên lính mà tự nhiên bình định được phần lớn lãnh thổ miền Nam !! Chúng ta thừa biết rằng Hồ Chí Minh và tướng Giáp có ưa gì công giáo Bùi Chu-Phát Diệm- Trước cũng vậy và nay cũng vậy. Vậy mà họ vẩn giả đò nhẫn nhịn giao hảo. Nhân dịp lễ phong chức giám mục Lê Hữu Từ, Ông Hồ Chí Minh đã kéo phần lớn các bộ trong chính phủ lục tục về Phát Diệm- như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Mạnh Hà dự lễ phong chức. Màn kịch trẻ con ấy, đáng nhẽ phải có một Bảy Viễn công giáo miền Bắc vạch trần ra mới phải. Đồng thời tạm để yên cho nhóm tự trị công giáo Phát Diệm. Cả một vùng đất từ Ninh Bình nhất là Bùi Chu Phát Diệm giáp giới đến Thanh Hóa dưới quyền giám mục Lê Hữu Từ trở thành vùng trái đệm và đã cứu sống nhiều thành phần đảng phái thoát nạn. Tôi giả dụ rằng có khu tự trị Bùi Chu và Phát Diệm của công giáo rồi được tiêp nối ngay là khu tự trị của Cao Đài trải dài từ Nam Định, Phủ Lý, Hà Đông lên đến Hà Nội. Rồi từ Hà Nội là khu tự trị Bình Xuyên kéo xuống đến Hải Phòng, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hòn Gay. Và từ đó lên miền thượng du giáp ranh biên giới Việt Trung là lảnh địa khu tự trị Hòa Hảo thì có đến hai Võ Nguyên Giáp, liệu có thể làm gì được? Vai trò tôn giáo-chính trị là một sản phẩm đặc thù của miền Nam mà rất tiếc miền Bắc không có được!! Yếu tố biên giới Nếu không có một biên giới Việt Trung-một vùng hậu cần rộng lớn là nguồn cung cấp súng đạn, lương thực và huấn luyện thì liệu chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất sẽ xảy ra như thế nào? Làm thế nào, tướng Giáp có những sư đoàn được huấn luyện đầy đủ, được trang bị đầy đủ quân trang quân dụng, được trang bị những võ khí chiến lược như đại bác 105, súng phòng không 37 ly đã làm thay đổi diện mạo trận chiến Điện Biên Phủ ngay từ lúc đầu? Philip B. Davidson đã có một nhận xét sâu sắc không thể chối cãi được rằng Xin trích nguyên văn, một cái lợi thế địa lý tuyệt hảo cho Việt Minh vì giáp ranh biên giới với Tàu If the French spread out to control the countryside, they subjected themselves to defeat in small detachments. If they concentrated around the key population centers, they surrendered the rural areas to the Viet Minh. There was a fourth Vietminh advantage- the location of the Viet BacThe Vietminh base area adjacent to China. This factor gave them a priceless sanctuary and logistic base. The Vietbac-China sanctuary provided a source of arms and equipment, training areas, and above all, defensive locations for the organ of the Vietminh government. Philip B. Davidson Ibid,, trang 43 Biên giới Việt- Trung là một lãnh địa vô giá và lá căn cứ hậu cần cho sự chiến thắng của tướng Giáp. Và nay chúng ta cũng phải trả một cái giá vô giá về vùng biên giới này. Không biết tướng Giáp có biết điều đó không? Tất cả những yếu tố trên làm nên cái vinh quang của đại tướng Võ Nguyên Giáp thì cũng là những nguyên nhân làm nên thất bại cho tướng Bình ở vùng Nam Bộ? Việc tiếp tế hậu cần cho Nam Bộ thật vô vàn khó khăn. Sau đây là trường hợp hợp hiếm hoi giúp đỡ không phải theo nhu cầu mà tiện thể có người vô Nam Bộ nên cung cấp cho miền Nam một số tiền. Theo tài liệu trong cuốn Huỳnh Tấn Phát kể lại cho hay Sau cùng đoàn chuẩn bị về Nam, anh Huỳnh Tấn Phát và tôi được phân công về trước, đưa một đoàn cán bộ quân chính khóa năm Trung Ương Khoảng 70 người tình nguyện vào Nam . Anh Huỳnh Tấn Phát đi nhận nhiệm vụ ở Bộ Quốc Phòng giao cho anh một số tiền lớn đem về cho tướng Nguyễn Bình ở miền Đông Nam bộ .. Huỳnh Tấn Phát, Cuộc đời và sự nghiệp, trang 143 Số tiền giao cho Huỳnh Tấn Phát đưa vào Nam cho tướng Bình là bao nhiêu thì không rõ, có đủ nuôi quân trong vài tháng trời không. Về trang bị vũ khí đạn dược thì cửa ngõ duy nhất là Vũng Rô có nhiệm vụ cung cấp vũ khí không phải chì cho khu 7 mà còn cả các khu 8,9 nữa. Công việc cấp bách lúc đó là xây dựng kho chứa vũ khí, tìm ghe thuyền đưa vũ khí về Nam Bộ. Một trong các kho đó là Vũng Rô mà thủ kho là đồng chí Tất. Chính từ kho Vũng Rô này mà bà Nguyễn Thị Định nhận võ khí chi viện cho Nam Bộ . Các thuyền trưởng Trần Văn Hoài Hoài Râu, Đặng Văn Qua, Mười Thôi cũng xuất phát từ đó đem súng đạn về cho ba khu 7,8,9. Nguyễn Bình, Huyền thoại và sự thật,, chuong 45, Ibid . Số phận hai người họ làm nên số phận hai vùng đất nước mà họ có trách nhiệm!! Hồi Ký Sơn Nam, Từ U minh đến Cần Thơ, Ở chiến khu 9…trang 158 Hứa Hoành, Việt Minh giết Đức thầy Huỳnh Phú Sổ, namkylucinh. Nếu cần phải nói thêm điều gì thì có thể nói rằng yếu tố thời gian là một trong những yếu quyết định phần thắng bại cho đôi bên. Thời gian càng kéo dài càng lợi cho VNG và bất lợi cho Pháp cũng như Mỹ sau này. Người Pháp và người Mỹ cần một chiến thắng mau lẹ. Quick victory. Viet Minh cần một cuộc chiến tranh kéo dài protracted war.. Cái chết của tướng Nguyễn Bình Tướng Nguyễn Bình đã mắc phải một số sai lầm không tha thứ được như định thủ tiêu Bảy Viễn. Giết hại rất nhiều đồng đội của Bảy Viễn. Nhưng quan trọng hơn cả, ông được coi là người có trách nhiệm giết hại lãnh tụ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ. Mối hận thù ấy đến tận bây giờ, người dân Hòa Hảo vẫn chưa quên và không bao giờ tha thứ cho Việt Minh. Việc giết giáo chủ Huỳnh Phú Sổ thật ra có nhiều nguồn tin trái ngược nhau .. Ký giả Nam Đình quy cái tội ấy cho Trần Văn Giàu. Còn theo Hứa Hoành, việc giết giáo chủ Huỳnh Phú Sổ là do tên Đào Công Tâm, chính trị viên của đại đội 66 Việt Minh chủ động hạ sát Đức Thầy vào họp, rồi ùa ra đâm loạn đả vào mọi người tự vệ quân của Đức Thầy khi đèn tắt. Đào Công Tâm đã hạ sát Đức thầy không phải Bửu Vinh Theo lời kể của ông Lâm Quang Phòng, một nhân vật tên tuổi của miền Tây kháng chiến kể lại. Hứa Hoành, Việt Minh giết Đức thầy Huỳnh Phú Sổ, Lợi dụng tình trạng sâu xé nhau ấy, tướng Latour đem tiền bạc vũ khí cung cấp cho họ. Họ được coi như một vùng tự trị, được thu thuế, được tuyển quân. Cả một vùng rộng lớn nay người Pháp có thể yên tâm. Đức Phạm Công Tắc còn ngả theo Nhật, tôn phò Cường để, cung cấp tin tức cho Pháp, cho Nhật.. Việt Minh sở dĩ bị cô lập, theo Hilaire du Bernier vì đã phạm vào lỗi lầm là đã tiêu diệt Phật giáo Hòa Hảo Aliénation of the Hoa Hao was the first of Binh’s mistakes. Hilaire du Berrier, Ibid, trang 69 Nhưng việc đổ mọi trách nhiệm lên đầu tướng Nguyễn Bình thật cũng không đúng. Theo người viết bài này, cái lỗi lầm không tha thứ được của tướng Nguyễn Bình là đã không đi cùng đường với Tổng Bộ- nói đúng ra không vừa lòng Võ Nguyên Giáp Và theo cách suy luận biện chứng của người cộng sản thì ông sẽ bị khai trừ. Khai trừ cách nào là chuyện xảy ra sau đó. Cũng vẫn theo H. Berrier thoạt tiên là khai trừ các tay chân bộ hạ của tướng Bình và được thay thế bằng những người khác từ Bắc gửi vào. Khi nhận được giấy phải ra Hà Nội, ông đã do dự trù trừ trong mấy tuần lễ rồi mới quyết định ra đi . Xin trích nguyên văn nhận xét của H. Berrier For weeks, he stalled. At last, he started, only to be killed by the French along the way. There were those in the expeditionary corps who suspected that the tip-off which reach their hands was sent by Ho and Giap themselves. Having Binh intercepted by a French column was a more satisfactory method of execution, for the man was still an idiot to may in the South. He has spilled so much French blood there; and this, to the Viet Minh of Cochin China, was the measure of his greatness. Hillaire du Berrier, Ibid, trang 70 Việc Bảy Viễn đã từ chối không nhận chức khu trưởng khu 7, nào phải lỗi của riêng tướng Bình? Điều đó cũng là trách nhiệm của Phạm Ngọc Thuần, Lê Duẩn,, Việc sát nhập Bình Xuyên và giải tán Bình Xuyên vào lực lượng Việt Minh thì đương nhiên Bảy Viễn không bao giờ chấp nhận. Người ta còn nhớ là sau buổi họp với nhóm Việt Minh và khi về lại nơi đóng quân của mình, các quân sư của Bảy Viễn như Maurice Thiên cho rằng Chúng nó bầy trò phong chức khu trưởng, chỉ là cái bánh vẽ to tướng. Không còn Bình Xuyên là mất tất cả. Bảy Viễn cũng đồng ý như thế và nói Mày nói đúng. Mất danh nghĩa Bình Xuyên là mất tất cả!! Trích Nguyễn Bình, Huyền thoại và sự thật, chương 45, Tuy nhên, việc đổ vỡ chính trị này, tướng Nguyễn Bình vẫn là người trách nhiệm. Vì ông vẫn bị mang tiếng là một viên tướng ngoài cõi, bất chấp triều đình. Những lãnh đạo cộng sản khác như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ chờ dịp này đổ hết trách nhiệm lên đầu tướng Bình ..Loại bỏ được tướng Bình thì có lợi cho họ, Lê Đức Thọ đã không ngần ngại chỉ trích tướng Bình là người bạt mạng, trọng hình thức bên ngoài. Sự loại trừ tướng Bình ra khỏi sân khấu chính trị miền Nam mở rộng chỗ cho Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng và họ là những người trực tiếp thừa hưởng cái việc ra đi của tướng Bình. Phần Hồ Chí Minh đã có lần gửi một thư với nội dung với lời trách cứ như sau Bác tin chú chỉ tướng Nguyễn Bình giữ được tình đoàn kêt mới đưa tới đại thành công. Nguyễn Bình, Huyền thoại, Ibid, , chuong 50, trang 06 Chính vì bị Tổng Bộ quy trách nhiệm không thống nhất được các lực lượng Bình Xuyên và giáo phái, tướng Nguyễn Bình đã quyết định phải cử Hai Trọng tức Lương Văn Trọng, thư ký riêng cũa tướng Nguyễn Bình ra Bắc bá cáo tình hình quân sự Đông Nam bộ. Hai Trọng đã đi cùng với phái đoàn Trần Văn Trà bao gồm Trần Bửu Kiếm, Nguyễn Đức Thuận, linh mục Nguyễ Bá Kỉnh, Phạm Văn Cung, Trần Văn Nguyên. Ở ngoài Bắc, tướng Võ Nguyên Giáp bắt Hai Trọng viết một đề án Cách mạng hóa bộ đội giang hồ. Trình bày trên cho thấy tướng Nguyễn Bình đã mất uy tín trước tướng Giáp, vì không giải quyết được mâu thuẫn với Bảy Viễn. Số phận ông nằm trong tay tướng Võ Nguyên Giáp. Cái sai lầm thứ hai của Nguyễn Bình là những thất bại bị loại ra khỏi Sài gòn đã khiến ông quyết định sống mái với quân đội Pháp. Thay vì tiếp tục chiến tranh du kích, ông mở những cuộc dàn trận. Bataille rangée, trực diện đối đầu ở khắp nơi, đánh vào các đồn bốt của Pháp trước sự kinh hoàng của binh sĩ, bất kể những thiệt hại về người. Tướng Nguyễn Bình hơn ai hết hiểu rằng các đơn vị dưới quyền ông đã kiệt lực, đã thiều thốn đủ thứ, đã không đủ mạnh, đã không đủ người, nhất là trang thiết bị quá yếu kém. Thật ra, tướng Bình đã làm một liều lĩnh lớn mà bất cứ nhà chỉ huy quân sự nào cũng phải tránh, khi ông từ bỏ lối đánh du kích để tiến hành một chiên tranh dàn trải . Bataille rangee. Lợi thế sẽ nghiêng về phía Pháp vì họ được trang bị vũ khí, hỏa lực đầy đủ. Đó là kiểu đánh một mất một còn- nếu thắng là vinh quang. Nếu thua, thua lụn bại.. Bà Nguyễn Thị Liên Hằng cũng có cùng nhận xét dịch sơ lược như sau - Tướng Bình đã tiến hành và trả một giá đắt trong việc sát hại những nhóm chống đối cũng như việc mở những cuộc tấn công lớn Large-scale attacks chống lại lực lượng thực dân Pháp. Những cuộc tân công ở mức độ lớn như thế, nhưng lại không đem lại một kết quả quân sự nào ở miền Nam cũng như miền Nam trung bộ. Ông đã bị các thành phần trong nội bộ đảng phê phán mà họ đều thèm muốn cái sự nổi tiếng của ông. Nguyên Thi Lien Hang, Hanoi’s War, trang 27 Phải chăng vì thế tổng bộ Việt Minh đòi hỏi ông phải trả món nợ đó bằng cách khai trừ ông? Trong khi đó người Pháp đã phản công một cách đúng mức, có mặt tại những nơi cần có mặt bằng nhảy dù, bằng tầu bè, xe lội nước, băng xe cộ và để lại đằng sau họ nhiều xác chết Việt Minh không kịp chôn cất. Theo sự nhận định của Lucien Bodard trong sách của ông, có thể nói binh đội tướng Bình hoàn toàn tan rã và không bao giờ có khả năng hồi phục lại nữa. Binh đội tướng Bình phải tìm cách lẩn trốn sang vùng biên giới ráp gianh với Campuchia và lẩn vào rừng già tận mũi Cà Mâu. Tướng Chanson đã hưởng những vinh dự dành cho ông qua những cuộc tảo thanh này.. Và trong cuộc kháng chiến chống Pháp, miền Nam đi trước về sau và người dân miền Nam đã sống được một cuộc sống tương đối an bình.. Kết quả là vào năm 1951, Lucien Boudard, dựa vào nhật ký mà người Pháp thu thập được một cuốn nhật ký từ xác chết của tướng Nguyễn Bình. Căn cứ vào cuốn nhật ký mỏng này mà Lucien Boudard có thể khẳng định dứt khoát Người giết tướng Nguyễn Bình không ai khác là tướng Giáp. Theo lệnh của tướng Giáp, Nguyễn Bình đã bị chết. Theo Philip B. Davidson, việc yêu cầu tướng Bình trở ra Bắc là một bản án tử hình và mọi người liên quan đều biết rõ điều đó. Giáp thừa biết Bình đang yếu nặng và có thể sẽ không sống nổi trong cuộc hành trình đầy gian khổ này. Lê Duẩn đã chọn hai sĩ quan chính trị đi theo Bình. xin trích nguyên văn Le Duan’s commissars blew Binh’s brain out with a United States Army One of the Vietminh officer was captured by the Cambodians, and he told them that the body was that of Lt. Gen. Nguyen Binh, late Viet Minh commanders in chief in Cochi China. The Frenh officer cut off one of Binh’s hand and sent ir to Saigon, where the fingersprints were found to be those of Binh. This death came to Nguyen Binh in feverish Cambodian jungle-alone, sick, betrayed- the price of failure in the world of Giap, Ho, and Le Duan. Philip B. Davidson, Ibid, trang 82 Lucien Boudard, La guerre d’Indochine, trang 464 Cũng theo Lucien Boudard, việc thủ tiêu công khai tướng Nguyễn Bình sẻ gây xôn xao và bất nhẫn trong nội bộ quân đội của tướng Bình nên Giáp cần dàn cảnh ra một cuộc đi ra Bắc .. và tìm cách giết ông. Trước khi Nguyễn Bình lên đường ra Bắc, Lê Duẩn đã đưa cho Nguyễn Bình một lá thư của tướng Giáp nội dung như sau - Đồng chí thân mến, đồng chí sẽ được một nhóm hộ tống gồm 30 người. Tôi giao công việc sống còn này cho đồng chí . Đồng chí sẽ sẽ đi ra Bắc xuyên qua các tỉnh ở Cam Bốt từ Kompong Cham, rồi đến Kratie1 và đ61n Strung Streng. Lá thư chấm dứt ở đó, tại sao chỉ đến Strung Streng? Nguyễn Bình biết chắc rằng mình sẽ bị giết trên tuyến đường này và mục đích của chuyến đi này. Giáp cũng biết rằng Nguyễn Bình biết mình có thể bị thủ tiêu trên đường đi. Nhưng Nguyễn Bính không có chọn lựa nào khác vẫn phải chấp nhận vì cao ngạo, vì kỷ luật đảng mà không thể phản bội. Nguyễn Bình đã cẩn thận ghi lại từng chi tiết chuyến đi này coi như một bản chúc thư. Ông không ngu dại gì để không thấy đây là cái bẫy dẫn ông đến cái chết- một cánh rừng tuyệt đối hoang dại, không có đường tiếp tế, không có căn cứ quân sự của Việt Minh mà chỉ cần cứ để rừng già làm cái công việc của nó cũng đủ chết rồi. Trong đám quân đi hộ tống, tất cả đều là người của Lê Duẩn chọn lựa. Tướng Bình tiếng là chef, nhưng có hai người ủy viên do Lê Duẩn chọn lựa mới thực sự là người chỉ huy. Sau hai tháng đi bộ thì tới gần biên giới Lào. Cái bản ghi nốt cuối cùng của tướng Nguyễn Bình ghi ngày 21 tháng 9 1951 cho hay, họ nghỉ lại một nơi gần một bản Mọi. Sau khi liên lạc thì những người này hứa cung cấp gạo .. Nhưng đợi cả ngày không có tin tức gì cho mãi đến trưa hôm sau. Và đây rõ ràng là một cuộc ám toán có chủ đích. Những người Mọi gửi điện cho Sang Saroun cách xa đó chừng 50 kilo mét . Họ phải mất nhiều giờ mới tới nơi. Biết có biến đám đi hộ tống tướng Nguyễn Bình đã bỏ chạy, nhưng trễ quá rồi. Tướng Bình bị thương không cử động được. Bất đồ có hai người mặc đồ đen nằm trong nhóm của tướng Bình thừa dịp này đã chĩa súng về phía ông và nổ cò-. Đây là hai sát thủ được chỉ định của Việt Minh. Họ đã nhận được chỉ thị nếu bị rơi vào tay quân Pháp thì phải thanh toán tướng Bình. Và đó là diễn biến xảy ra thảm kịch mà tướng Giáp mong muốn, với bao nhiêu tính toán, cân nhắc và lựa chọn của ông. Nguyễn Bình cuối cùng thật sự đã chết. Nhưng một tình cờ là tướng Chanson- một kẻ thù của tướng Bình cũng bị ám sát chết trong một lần kinh lý ở Sađéc trong một buổi lễ !! Ở xứ Nam Kỳ này chết vì một cuộc ám sát là điều thường tình. Như thế tướng Bình và tướng Chanson, cả hai kẻ thú trong trận chiến 1950 đều bị khai trừ trong khoảng cách hai ba tuần. Sau cái chết của Nguyễn Bình, lưc lượng Việt Minh của Lê Duẩn không còn gì nữa, đành ở ẩn vào bưng biền Đồng Tháp Mười. Sự khác biệt cắt nghĩa được nay chiến tranh chuyển ra Bắc vì từ nay, Võ Nguyên Giáp được chi viện đầy đủ về quân sự và huấn luyện.. Chiến tranh du kích được thay thế bằng chiến tranh trận địa .. Thử hỏi, đặt địa vị tướng Giáp vào tướng Bình, ông sẽ làm được gì hơn không, vì nguồn cung câp vũ khí rất hiếm hoi, thỉnh thoảng mới nhận được từ Vũng Rô. Trước khi kết thúc bài biên khảo này, đôi giòng sau đây trích trong nhật ký của ông nói lên tất cả những điều ông cần phải nói trước khi chết. Bác sĩ bi quan về tình trạng sức khỏe của tôi. Ông nói rằng tôi không thể đi xa được Tôi cần phải có vài tháng nghỉ ngơi dưỡng bệnh. Nếu đi, tôi sẽ ngã gục vì không có thuốc men, không có một y tá để săn sóc .. Tôi bước đi rất khó khăn, vậy mà tôi phải đi bộ hàng ngàn cây số trong rừng ngàn phần nguy hiểm chết người này. Nhưng làm thế nào, tôi có thể ở lại Nam Bộ chờ bình phục? Thật là nhục nhã nếu van xin để hoãn lại chuyến đi này! Và tôi sẽ trở thành một chướng ngại làm phiền mọi người. Mỗi một lúc, tôi sẽ phải xin những người bạn cuối cùng còn sót lại, vợ con họ săn sóc. Không, tôi không muốn điều đó. Tôi cũng không muốn ẩn náu ở trong gia đình tôi. Không, tất cả những điều đó không thể được. Tôi quyết định đi mặc dầu thân xác tôi đau ốm nặng. Tôi nghĩ tới bổn phận của tôi. Tôi sẽ đi để uy tín của tôi không bị sứt mẻ nơi những người đã kính phục tôi. Nếu tôi ở lại. Họ sẽ nói rằng tôi che dấu bệnh tật và tôi không đủ can đảm vượt lên trên những tình cảm cá nhân của mình. Họ sẽ tố cáo tôi nặng tình cảm gia đình thay vì cách mạng. Vậy thì tôi phải đi. Tôi quyết định sẽ đi theo lộ trình đã được vạch ra; nhưng một vài bạn hiểu tôi, hiểu tình trạng bệnh hoạn của tôi đã không thể cầm được nước mắt. Lucien Bodard, Ibid, trang 466 Trong một phần nhật ký khác, tướng Nguyễn Bình đã có ý tưởng muốn ra hàng Bảo Đại, nhưng lại nghĩ lại hành xử như thế thì thì là một phản bội- phản bội bạn bè- phản bội lại những kẻ đã hy sinh và những người còn sống và sẽ biến thành kẻ thù của tôi. Tôi đã ở bên phía họ, tôi dành ở lại. Phần Hillaire du Berrier cũng cho rằng Tướng Bình đã chịu kiểm thảo một cách gay gắt, nhưng ba năm còn lại ở miền Nam là cơn ác mộng với ông ..Từng người một những người tay chân thân cận của ông bị bứng đi hết thay bằng những người khác cũa tổng bộ. Và cuối cùng năm 1951 ông nhận được lệnh của tổng bô Việt Minh phải lên đường ra Bắc. Trên đường đi, ông đã bị Pháp phục kích. Việc mượn bàn tay Pháp giết tướng Bình cũng là một phương pháp khai trừ hữu hiệu nhất. Hillaire du Berrier, Ibid, trang 70 Phải nhận rằng cái chết của Nguyễn Bình là một cái chết hoàn hảo. Nó vừa lòng cả hai phía. Người Pháp trả được những món nợ do tướng Bình gây ra cho những đồng đội của họ. Tổng bộ bằng lòng. VNG xoa tay vì kế hoạch khai trừ đạt mức độ hoàn hảo. Các người cộng sản Nam Bộ loại trừ được môt tên Bắc Kỳ khó chịu. Và nếu người đọc tìm hiểu cho kỹ cái suy luận biện chứng cộng sản thì biện pháp khai trừ là một biện pháp thông thường .. Chính bản thân VNG cũng từng lo ngại bị ám sát, thủ tiêu. Vị bác sĩ từng có trách nhiệm chăm lo sức khỏe cho VNG thú nhận một cách ngây thơ rằng không bao giờ đại tướng chịu uống thuốc mà không do chính tay ông đưa cho!! Vì sao thế? Đại tướng sợ bị đầu độc. © Đàn Chim Việt Cách đây hai tháng, Sáu “Xếch xông”… mang “mỹ hiệu” này vì trước thời kháng chiến, làm tiểu đội trưởng Chef de Section cho Pháp đại diện cho Mười Trí, đi dự phiên họp quân sự khu 7. Khi trở về Ấp số 8, Phú Lâm nơi Trung Đoàn 4 đồn binh, sáu “Xếch xông” không dấu nổi sự băn khoăn, vui mừng lẫn lộn, khiến Mười Trí kéo vào phòng riêng hỏi – Sáu à có chuyện gì vậy mày ? – Thưa anh lớn… – Với tao như anh ruột màv, chuyện gì mày cũng có thể nói thiệt được. Điều này, sáu “Xếch xông” công nhận nên lưỡng lự một chút rồi nói rõ – Thưa anh lớn, cuộc họp tại khu bộ chẳng có gì quan trọng. Không hiểu sao Khu trưởng biệt đãi em. Cuộc họp chấm dứt, Khu trưởng lưu em lại một ngày để… nói chuyện. Mười Trí tánh nết nóng như lửa, ngắt ngang – Mà chuyện gì chứ? Sao mày ấp úng hoài ? – Thưa anh lớn, Khu trưởng đề nghị với em tìm bắt bộ chỉ huy của Trung Đoàn 25 giao cho Khu trưởng. Xong việc… Mười Trí đập bàn quát – Sao mầy không bắn vào đầu nó ? Mầy dư biết rằng tất cả anh em chỉ huy Trung Đoàn 25 là đảng viên Đại Việt, là đồng chí với tao mà! – Dạ, thưa anh lớn em biết nên mói không dám nhận lời. Mười Trí dịu giọng – Hay lắm, kể lại tao nghe tất cả những gì Nguyễn Bình đã nói với mày. – Thưa anh lớn, Khu trưởng nói rằng sau khi bắt hết bộ chỉ huy của Trung Đoàn 25 rồi em sẽ được thưởng đồng và tức khắc Khu trưởng phong cho em làm Tư lịnh Trung Đoàn đó, Khu trưởng có cho em, trước khi ra về, một khẩu “ngựa bay” và đồng gọilà… đặt cọc. Hôm nào em quyết định, Khu trưởng sẽ trao nốt số tiền còn lại… Hai mươi ngàn đồng, số tiền không phải nhỏ vì “lương” của một người lính kháng chiến, mỗi tháng chỉ là 60 đồng nếu bộ chỉ huy có tiền. Mười Trí hỏi tiếp – Ngày nào mày phải trả lời dứt khoát? – Thưa, đúng một tuần, trong kỳ họp quân sự lần thứ hai tại khu bộ. – Thôi được. Đừng nói cho bất luận ai biết. Tao cần đi gặp Bùi Hữu Phiệt gấp. Sáu “Xếch xông” la lên – Thưa anh lớn. – Yên chí. Có tao đây anh em Đại Việt không ai bắn mày đâu mà sợ… Và nếu bắn, thì chính tao đã bắn mày rồi. Mười Trí vội vã qua Ấp số 4, nơi Trung Đoàn 25 và 5 đồn binh, chỉ cách Ấp số 8 có con lộ trải nhựa. Sự qua lại giữa hai ấp, từ cấp chi huy đến binh sĩ là chuyện thông thường nên lính canh bồng súng chào mà không chút ngạc nhiên trước sự xuất hiện của Mười Trí. Mười Trí đi thẳng tới Tổng hành dinh của Trung Đoàn 25, đưa mắt nhìn mọi người đương làm việc rồi nói. – Các em. Qua có chuyện riêng muốn nói với anh Phiệt vài phút. Mười Trí nói với Bùi Hữu Phiệt bằng giọng ỡm ờ – Anh Phiệt, dạo này có nhiều tiền xài không ? Bùi Hữu Phiệt lắc đầu – Tháng này các anh em ở thành chưa cho người tới tiếp tế. Trưng đoàn 25 tức bộ đội An Điền đặt dười quyền chỉ huy của Đại Việt Quốc Dân Đảng Xứ Bộ Nam Việt, nên thường được Đảng tiếp tế tiền bạc và vũ khí. Mười Trí vẫn giọng cười đùa cợt – Tôi cho anh đồng, chịu không ? Bùi Hữu Phiệt ngạc nhiên trước số tiền lớn lao, trố mắt hỏi lại – Thiệt không ? Tiền đâu mà anh Mười có nhiều vậy ? Trung Đoàn 25 liên minh với Bình Xuyên và mang danh là của Bình Xuyên nên sự trợ giúp lẫn nhau là chuyện thông thường. Mười Trí cười. – Thiệt chứ. Đó là phân nửa số tiền tôi bán cái đầu anh cho Nguyễn Bình. Chờ cho Bùi Hữu Phiệt đã “tỉnh trí” Mười Trí mới kể rõ đề nghị của Khu trưởng Nguyễn Bình với Sáu “Xếch xông”. Bùi Hữu Phiệt trầm ngâm – Bây giờ anh Mười tính sao ? Giọng nói của Mười Trí trở lại vô cùng nghiêm nghị – Mình tương kế tựu kế. Tôi cứ sai thằng Sáu đi họp khu bộ kỳ tới, nhận lòi với Nguyễn Bình, lãnh tiền về rồi tụi mình chia đôi. – Như vậy không ổn. Nguyễn Bình bị lừa sẽ căm giận Sáu “Xếch xôn” sẽ trút tất cả thù hận lên đầu anh. – Tụi mình sợ gì ? Với Trung Đoàn 2,3, 4, 5 và 25 Bình Xuyên cộng thêm với anh em Cao Đài và Hòa Hảo kháng chiến,dư sức “ăn chung” đủ với Nguyễn Bình. – Nhưng mối thù hận sẽ kéo dài và cuộc thanh toán giữa kháng chiến với kháng chiến chẳng ích lợi gì cho đất nước. Mười Trí gật đầu tán thành – Đúng. Vậy anh có kế hoạch gì khác không? Bùi Hữu Phiệt đảo mắt nhìn quanh như sợ “vách có tai” rồi mới nói nhỏ cho Mười Trí ra kế hoạch của mình. Mười Trí mừng rỡ lộ trên nét mặt – Đúng đúng. Nhổ cỏ phải nhổ tận rễ. Nhưng tại sao anh phải di binh ? Và tại sao lại phải cần tới Trình Minh Thế ? Bùi Hữu Phiệt giải thích – Ấp số 4 quá gần Saigon lại là “Tổng hành dinh” của anh, ” con mồi” chưa chắc gì dám tới, mà nếu có tới thì những gì xảy ra, anh lãnh đủ hậu quả. – Còn việc nhờ tới Trình Minh Thế ? – Đó là đòn “hư hư thực thực”. Trên phương điện công khai Cao Đài Kháng chiến lãnh hậu quả của vụ này, nhưng anh Thế đồn binh tại Dòng Lớn sát với Cao Miên, biên thùy một cõi, thì có thể bất chấp những gì xảy ra sau “vụ đó”. Một điều hợp lý hơn nữa là cả Nam bộ, ai cũng biết Nguyễn Bình và Trình Minh Thế có mối thù không đội trời chung. Mười Trí vỗ tay cười – Hợp lý. Nhưng ngày nào anh di binh? Bùi Hữu Phiệt cũng cười – Ngày mai anh Mười triệu tập một cuộc họp quân sự giữa Trung Đoàn 4, 5 và 25 đi. Anh đề nghị đánh Chợ Lớn. Tôi và anh Phạm Văn Đực phản đối đề nghị này. Chúng mình công khai công kích nhau, tôi gây sự bất hòa. Sau đó, tôi hạ lệnh di binh ngay, anh Đức cũng tách rời khỏi khu vực Phú Lâm. – Nhưng nếu anh Đức cùng đi với anh… – Anh Đức sẽ đi sau tôi một ngày và không đồn binh cùng một chỗ… Một lần nữa Mười Trí cười lớn – Tư Đức đồn binh ở địa điểm có thể tương trợ anh nếu Nguyễn Bình đưa quân của thằng Lê Hồng Giỏi, Huỳnh Tấn Chùa, Đao sơn Tây tới tấn công bộ đội anh chứ gì? – Dạ phải. – Thế còn vụ Trình Minh Thế ? – Tôi sẽ cho liên lạc ngay. Anh Thế gặp tôi ở nơi đồn binh mới. Mười Trí vui vẻ đứng dậy muốn ra về. Bùi Hữu Phiệt nói đùa – Anh Mười nhớ cho người mang đồng bán đầu tôi tới địa điểm mói nghe ? Cuộc họp quân sự tại ấp số 8 Phú Lâm nổi sóng. Lần đầu tiên Phạm Hữu Đức và Bùi Hữu Phiệt lớn tiếng công khai chỉ trích quyết định đưa quân tấn công Chợ Lớn của Mười Trí. Mười Trí, bằng những “danh từ Bình Xuyên” đã mạt sát Bùi Hữu Phiệt và Phạm Hữu Đức là thỏ đế. – Vậy mà cũng Tư lịnh này Tư lịnh nọ, cầm quân kháng chiến. Bùi Hữu Phiệt và Tư Đức giận dữ bỏ phòng họp đi thẳng một mạch về ấp số 4. Tấn tuồng họ đóng khéo léo tới mức không một ai nghi ngờ. Tư lệnh Trung Đoàn 25 hạ lệnh, chập tối hôm đó, phải cấp tốc di binh. Lưu Nhất tức Tiến,chỉ huy quân sự ngăn cản – Anh Sáu Bùi hữu Phiệt nóng quá. Để thủng thẳng bàn luận với anh Mười xem sao ? Sáu Phiệt cười lạnh lẽo – Thảo luận gì nữa ? Nội đêm nay anh Mười đưa quân đánh Chợ Lớn hay ít lắm cũng đánh Phú Lâm, thì sáng sớm mai Tây nó sẽ trả đũa, chúng mình ở đây hứng lấy cái chết hay sao ? Trung Đoàn 25 Bình Xuyên nhổ trại trước sự luyến tiếc của anh em chiến sĩ trong Liên Minh. Khuya đêm đó, họ tới nơi đồn binh đã dịnh, bến Lò Đường tại Vàm Cỏ Đông. Lưu Nhất tức Tiến mừng rỡ vì nơi đây là chỗ đồn binh lý tưởng. Lẽ cố nhiên, vì chiến thuật di động cần thiết cho du kích chiến, Bộ Tham Mưu đã phải định trước những địa điểm di và đồn binh, nhưng nơi vừa tới thực quá “đẹp”. Về đường bộ, nếu địch quân tới phải băng qua một cánh đồng rộng mênh mông và trơ trụi không thể nào lọt khỏi con mắt quan sát của tình báo hay tiền đồn. Về đường thủy, địch quân phải đi dọc theo sông Vàm Cỏ Đông, đổ bộ nơi bến Lò Đường cũng quá lộ liễu đối với tình báo, liên lạc viên của Trung Đoàn tung ra khắp nơi. Hơn nữa, bộ Tổng Tham Mưu được đặt tại căn nhà lớn, cách bến Lò Đường cả gần cây số ngàn. Muốn tới bộ Tổng Tham Mưu người ta phải băng qua nhiều khu đất trống, nhà cửa thưa thớt rồi cuối cùng vượt cây cầu gỗ khá lớn bắt ngang rạch mới tới tiền đồn của bộ Tổng Tham Mưu . Điểm đắc lợi nhất nơi đây là binh đội được đóng thành hình chữ I tại các căn nhà dọc theo bờ sông sình lầy, đầy dừa nước, số còn lại đồn trú nơi nội địa hình cánh cung. Như vậy dầu bị tấn công thì Trung Đoàn 25 cũng dư điều kiện thuận lợi để kháng chiến, có thua thì cùng đủ “đất” để rút lui một cách an toàn. Bùi Hữu Phiệt gọi vị chỉ huy quân sự tới – Anh cho liên lạc đi mời gấp Trình Minh Thế. – Thưa anh lớn… – Tôi đã thỏa thuận với anh Tư Đức về vấn đề tương trợ phía Nam nhưng còn phía Bắc cần anh Thế. Lưu Nhất cãi – Thưa anh Tư lịnh, phía Nam hay Bắc mà bị địch tấn công, với địa thế này, Trung Đoàn chúng ta cũng đủ sức tự vệ. Sáu Phiệt dịu đàng, một điều ít khi có trong những cuộc thảo luận với thuộc cấp – Tôi cũng biết vậy. Anh Tư Đức và anh Thế cũng là liên minh với tụi mình thì tính toán thế chân vạc tương trợ lẫn nhau vẫn hơn là tự mình phải đảm đương hết mọi chuyện. – Dạ đúng. Sáu Phiệt vẫn chưa muốn cho Lưu Nhất biết rõ bí mật đương được “dệt thành màng lưới ” nên đáp – Tấn mà thắng là điều mong muốn nhưng lúc nào tôi cũng nghĩ tới cái thoái an toàn của anh em. Lưu Nhất công nhận – Thưa anh lớn, tôi sẽ phái liên lạc đi ngay. Anh lớn có cần biên thư… – Khỏi cần. Liên lạc nói với anh Thế rằng “việc cay đắng” là đủ. Đó là mật hiệu giữa các vị Tư lịnh trong Liên Quân Quốc Gia Kháng Chiến miền Nam. Nhận được “mệnh lệnh tối khẩn ” Trình Minh Thế tức tốc tới bến Lò Đường. Bùi Hữu Phiệt hơi ngại vì Trình Minh Thế đem theo một tiểu đội cận vệ trong đó có cả Tư lệnh phó Cao Đài kháng chiến tên Luyến. Luyến nhiều tuổi hơn Thế nhưng lại nóng nảy, luôn luôn đeo trên vai khẩu súng trường của kỵ binh Nhựt. Luyến là tay thiện xạ, trong vòng 100 thước, chưa hề bắn phát nào không trúng đích. Nhiều người ngạc nhiên vì địa vị cao mà còn mang súng trường thì Luyến đáp – Nói thiệt với các anh, đi đường xa, thấy “cái gì” khả nghi trong 200 thước trở lại, với cây súng này, nếu tôi không bắn chết thì cũng làm “nó” bị thương. Trò chơi ưa thích nhất của Luyến là khi bắt được các cán bộ Việt Minh, sau cuộc điều tra, trói địch dưới gốc cây rồi tuyên án – Mày VM hạng nhẹ, tao bắn cháy tóc. Mày VM cỡ trung tao “xin” một tay. Mày nặng quá rồi, đạn phải ghim giữa trán. Không bao giờ “bản án đã tuyên” lại bị truyền thi hành sai lệch. Như hiểu ý Bùi Hữu Phiệt, Trình Minh Thế nói – Tôi có một chuyện rất khó, nói riêng với mình anh được không? Bùi Hữu Phiệt nhận lời ngay. Như vậy cuộc gặp gỡ tay đôi do khách đề nghị. Trung Đoàn 25 không còn lo đã tỏ ra coi khách kẻ trọng người khinh Khi chỉ còn hai người đối điện. Bùi Hữu Phiệt, kể tỉ mỉ về đề nghị của Nguyễn Bình với Sáu ” Xếch xông “, về mưu tính của Mười Trí và luôn cả tấn tuồng cãi lộn ở ấp số 8 Phú Lâm – Anh đảm nhiệm được vai trò quyết định đó không ? Trình Minh Thế trả lời ngay – Lẽ cố nhiên là được nhưng tại sao các anh dành cho chúng tôi ? – Điều đó cũng dễ hiểu. Nếu có sự nhúng tay lộ liễu của anh Mười Trí thì toàn thể Bình Xuyên sẽ lâm nguy vì địa điểm đồn binh của Bình Xuyên dễ bị tấn công. Hơn nữa, anh Mười không phải là Tư lệnh của toàn thể Bình Xuyên. Hậu quả xảy ra, Năm Hà, Sáu Đời, Tư Tỵ, Bảy Viễn có thể trách cứ anh Mười gây xáo trộn nội bộ. Trình Minh Thế gật đầu – Điều đó đúng, nhưng Sáu “Xếch xông”… – Anh Mười có thể đổ quấy rằng Sáu “Xếch xông” phản Trung Đoàn 4 Bình Xuyên. Trình Minh Thế mỉm cười, đăm đăm nhìn Bùi Hữu Phiệt – Sao các anh không tự giải quyết vụ nầy, nhất là Nguyễn Bình đã muốn “lấy đầu anh”? Tôi đã dự cuộc thi bắn có mặt cả Nguyễn Bình, các em của anh bắn còn chính xác hơn người khác ? – Đúng vậy, nhưng công khai, Nguyễn Bình chưa hề có điều gì thất thố với chúng tôi, trái lại bề ngoài lúc nào”Khu trưởng” cũng ưu ái. Trình Minh Thế phá lên cười – Mặc dầu chính các em anh đã một lần mưu sát Khu trưởng ? Bùi Hữu Phiệt thở dài – Phải, nhưng tất cả sự việc đó đều trong vòng bí mật mà chỉ chúng ta biết với nhau. Trình Minh Thế mơ màng – Tôi hoàn toàn tán thành vụ này nhưng tôi khó mà đích thân… Bùi Hữu Phiệt qua cuộc thi bắn đã biết rằng Trình Minh Thế rất giỏi về chỉ huy quân sự, nhưng tài súng sáu lại tầm thường, nên đáp – Tôi “biếu” anh một tay xạ thủ cừ khôi…. Như chợt nghĩ ra, Trình Minh Thế reo lên – Không cần. Tôi cũng có “quan dưới trướng” đáng mặt.. anh hùng. Bùi Hữu Phiệt nghiêm nghị – Anh hơn chúng tôi ở chỗ biên thùy một cõi. Vụ này vì đại cuộc. Trình Minh Thế ngắt lời – Tôi đã bằng lòng rồi mà. Một liên lạc của tôi sẽ để… anh nuôi cơm. Khi cần tức tốc nó về báo cáo. Anh tin đi, tôi xếp đặt mọi chuyện thực chu đáo. Nhưng một tuần sau cuộc thảo luận giữa Bùi Hữu Phiệt và Trình Minh Thế trôi qua, nước sông Vàm Cỏ vẫn êm dịu chảy, mây trắng vẫn bay mà chưa có tin của Mười Trí. Mười giờ sáng hôm đó, hai chiếc xuồng ba lá, dài và to hơn xuồng thông thường, cặp bến Lò Đường. Hơn một tiểu đội, đội nón lá lụp xụp, mặc tuyền bà ba đen, võ trang tiểu liên lăm lăm trên tay trừ hai người chỉ huy đeo súng lục, vội vã bước lên bờ. Người đi đầu bỏ nón lá ra, vẫy vẫy như chào những người lính gác vọng đầu và được kính cẩn chào lại vì người đó là Sáu “Xếch xông” quá quen thuộc với anh em Trung Đoàn 25. Đoàn người tiến mau vào nội địa. Còn cách cây cầu vài trăm thước, Sáu “Xếch xông ” quay lại nói nhỏ với người đeo súng lục. Người này gật đầu, bỏ hàng ngũ, một mình tiến vào tòa Miếu hoang gần đó. Sáu “Xếch xông” tiếp tục hướng dẫn tiểu đội tiểu liên nhắm hướng cầu thẳng tiến. Người ở lại đã vào trong Miếu, bỏ nón lá xuống. Y cao lớn, đeo cặp kiếng đặc biệt nửa trên màu đen thẳm, nửa dưới màu xanh nhạt. Khẩu súng đeo bên hông của y cũng khác thường, khẩu Wicker, nòng quá dài, khẩu súng tùy thân của những người săn sư tử bên Phi Châu. Y đảo mắt nhìn quanh, rồi như linh tính báo động, quay ngoắt lại – Anh là ai ? Kẻ mới xuất hiện nơi ngưỡng cửa Miếu, cũng mặc bà ba đen nhưng không đội nón lá, và tay cầm khẩu Colt 11,45 lễ phép đáp – Thưa Khu trưởng… – Anh biết tôi ? Anh đến đây làm gì ? – Thưa Khu trưởng, vâng lệnh các anh lớn trong Liên Minh Quốc Gia Kháng Chiến, và của anh Tư lệnh tôi…. Nguyễn Bình ngắt lời – À tôi nhớ ra rồi. Anh là người của Trình Minh Thế đã tham dự cuộc bắn thi ở Rừng Thơm. – Dạ phải. Thưa Khu trưởng tôi đến đây để xử tử Nguyễn Bình. Phản ứng của Nguyễn Bình thực mau lẹ, nhảy xéo qua đưa tay rút súng nhưng kẻ thi hành án lệnh còn nhanh hơn, bắn viên đầu trúng bả vai phải của Nguyễn Bình và ngay phát sau trúng ngực trái. Nguyễn Bình bỏ chạy về phía tượng Phật nhưng chỉ còn đưa tay trái ra nắm lấy chân tượng rồi từng phân một quỵ xuống, cuối cùng ngã ngửa trên sàn gạch rêu đã phủ xanh. Kẻ thi hành án lệnh muốn bắn thêm “phát ân huệ “. Từ phía cầu, tiểu liên nổ ròn tan và liên tiếp kế tiếng chân vội vã chạy về phía Miếu hoang. Kẻ thi hành án lệnh mỉm cười, đi về phía sau Miếu rồi mất dạng. Các vệ sĩ của Nguyễn Bình đã vào trong Miếu. Nguyễn Bình đương dãy dụa, hai tay ôm chặt lấy bụng, máu đỏ từ các kẽ tay tuôn ra nhuộm đỏ cả rêu xanh. Có tiếng hạ lệnh – Khiêng Khu trưởng xuống xuồng. Rút lui mau. Tiếng chèo khua nước, chiếc xuồng chở Nguyễn Bình nằm ngửa, chân còn dãy dụa vì đau đớn, rẽ sóng lướt mau trên mặt nước. Trên bờ dọc theo mé sông Vàm Cỏ Đông, sau những bụi dừa nước um tùm, đoàn quân của Trung Đoàn 25 đã phục kích sẵn với cả những khẩu đại liên Maxim’s. Xạ thủ đại liên hỏi vì hai chiếc xuồng đã nằm gọn trong ổ phục kích. – Thưa anh lớn, ta nhả đạn chứ ? Lưu Nhất đã chứng kiến từ lúc đầu khi Nguyễn Bình được khiêng xuống xuồng, chép miệng đáp – Không cần. Dẫu sao chăng nữa, Khu trưởng Nguyễn Bình cũng đáng được chôn cất đường hoàng chứ không đến nỗi phải… mò tôm tiếng của kháng chiến ám chỉ kẻ chết bị thả xuống sông. Vì muốn dành một chút danh dự cuối cùng cho một vị Khu trưởng mà sau này, kháng chiến Nam Bộ nổi lên biết bao sóng gió… *** Văn phòng bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25 lại nhộn nhịp nhưng trong một phòng kín chỉ có Bùi Hữu Phiệt, Lưu Nhất, Sáu “Xếch xông”, vị Tham Mưu trưởng Trung Đoàn 25 và “anh lính Cao Đài” xạ thủ hội họp. Bùi Hữu Phiệt hỏi “anh lính Cao Đài” – Em có chắc Nguyễn Bình bị chết không ? – Thưa anh lớn, một phát trúng bả vai, một phát trúng ngực không nguy hiểm lắm, nhưng bốn phát trúng bụng thì tôi chưa thấy ai có thể chịu được. Lưu Nhất tiếp – Đạn Colt II, 45 bắn gần, có thể làm đứt từng khúc ruột. Bùi Hữu Phiệt quay qua hỏi Sáu “Xếch xông”. – Sao tới mãi hôm nay mới thi hành được một vụ ? Sáu “Xếch xông” vội đáp – Trong phiên họp khu bộ kỳ 2, Nguyễn Bình thấy em nhận lời… bên anh, thì mừng lắm muốn ra tay ngay nhưng cuối cùng lại trì hoãn bởi có bận nhiều công việc quan trọng khác. Y lưu em lại khu bộ, em nóng lòng muốn chết vì phải thông báo cho anh Mười rõ. Nguyễn Bình cũng rõ bổn phận của em sau khi đi họp, nên viết thư tay, cho liên lạc của khu bộ đi trao cho anh Mười nói rằng còn nhiều việc hệ trọng bàn với em nên phải trong một thời gian nữa mới về được. Cuối cùng em mới hiểu rằng Nguyễn Bình nghi ngờ em hay ít lắm, vào lúc giờ chót có thể thay đổi ý kiến nên giam lỏng em ở Khu để dò xét. Nhận được thư, anh Mười đã biết, rồi thông báo hành trình của tụi em hằng ngày cho anh biết. – Tại sao Nguyễn Bình lại phải làm thế? – Một phần y sợ đàn em không hoàn tất được sứ mệnh, phần nữa y phải kèm sát em sợ mưu toan bị lộ. Lưu Nhất gật đầu – Dĩ nhiên là Nguyễn Bình phải hành động như vậy. Sáu “Xếch xông” kể tiếp – Đã lọt vào nội địa bên Lò Đường rồi, em đề nghị Nguyễn Bình vào Miếu lánh mặt bởi lẽ tất cả các anh em trong bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25 đều biết mặt Khu trưởng. Nếu mẻ lưới không bắt được trọn bộ Tham Mưu, chỉ một tên thoát thôi cũng đủ vở lỡ hết mọi chuyện. Hơn nữa sự xuất hiện đột ngột của Khu trưởng có thể gây phản ứng bất ngờ mà anh em trong bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25 ai cũng có súng, ai bắn cũng mau như Khu trưởng đã biết. Nguyễn Bình công nhận hữu lý nên mới tạm lánh nơi miếu hoang. Sáu “Xếch xông ” chợt hỏi – Thí dụ như Nguyễn Bình không chịu vào Miếu thì các anh tính sao ? Lưu Nhất mỉm cười – Thì… tốn thêm ít viên đạn nữa. Gần tới cầu, anh Sáu thấy loáng thoáng vài người ra vào bộ Tham Mưu nhưng quanh sân, trung đội Thompson phòng vệ bộ Tham Mưu đã phục kích sẵn. Thí dụ như trung đội này thua tiểu đội tiểu liên của Nguyễn Bình thì còn vòng đai bên ngoài… Lưu Nhất nghiêm giọng – Sáng sớm hôm nay tôi mới được anh Tư lịnh Trung Đoàn cho hay, nhưng khi thấy Nguyễn Bình đặt chân lên Lò Đường là đã coi y như cái thây ma dầu y có mang theo cả một đại đội vệ binh vì cả đại đội này sẽ bị quân phục ven sông bắn chìm xuồng trước khi đặt chân lên đất liền. Thí dụ rằng, giờ phút chót, Nguyễn Bình đổi ý kiến, quay xuồng cùng tiểu đội cận vệ ra về thì máu loang nhiều trên sông Vàm Cỏ chứ làm sao thoát được tử thần. Sáu ” Xếch xông” rùng mình, Lưu Nhất hiểu ngay – Trong trường hợp đó thì cũng hơi nguy hiểm cho anh vì đạn vốn không có mắt. Sáu “Xếch xông” thắc mắc – Nhưng tại sao Nguyễn Bình lại thù hận các anh như vậy ? Bùi Hữu Phiệt đưa mắt cho Lưu Nhất rồi cùng phá ra cười – Không, Khu trưởng Nguyễn Bình không “ghét” chúng tôi như anh tưởng đâu. Câu hỏi của Sáu “Xếch xông” không phải là vô lý nhưng Bùi Hữu Phiệt và Lưu Nhất đã cười xòa, lãng sang chuyện khác bởi vì dầu sao cũng không cần phải cho Sáu” Xếch xông” hiểu biết về sự sống chết ngấm ngầm giữa Nguyễn Bình và Trung Đoàn 25 Bình Xuyên. —>Xem tiếp Pages 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 October 27, 2013 at 907am Nhân bài viết của bác Phùng Hoài Ngọc có nhắc đến chuyện thủ tiêu lẫn nhau giữa các phe phái trước đây, rằng “Mạnh Tây Tây giết, mạnh Việt Minh Việt Minh thủ tiêu” xin được giới thiệu cùng độc giả 2 bài viết “Tình đồng chí cộng sản và những bản án tử hình” của tác giả Trúc Giang và bài “Ai là anh cả Quân đội Nhân dân xứ lừa?” của An Hoàng Trung tướng để bà con có thêm thông tin. ——— TÌNH ĐỒNG CHÍ CỘNG SẢN VÀ NHỮNG BẢN ÁN TỬ HÌNH Tác giả Trúc Giang 1. Ai giết Trung tướng Nguyễn Bình? Ngày 29-9-1951, Trung tướng Nguyễn Bình cùng đoàn tùy tùng 22 người trên đường ra Bắc theo lịnh của Trung Ương, đã bị toán lính Miên do một trung úy người Pháp chỉ huy, phục kích tấn công, và Nguyễn Bình bị tử thương tại làng Srépok, huyện Se San, tỉnh Stung Streng, Cam Bốt. Sự thật rõ ràng là Nguyễn Bình bị Tây bắn chết, nhưng sau đó, Nam Bộ lại lan truyền câu hỏi “Ai giết Nguyễn Bình?”. Câu hỏi được truyền miệng trong bộ đội miền Nam và trong dân gian, từ đó, xuất hiện những bài viết về bí mật cái chết của Nguyễn Bình, “một tướng lãnh được xem như tài ba lỗi lạc, tận trung với Đảng, hết lòng yêu nước, được Tổ quốc ghi công và dân tộc sùng bái”. Thế nhưng, những bài viết tựa đề “Ai giết Nguyễn Bình”, “Tôi giết Nguyễn Bình”, “Những bí ẩn về cái chết của Nguyễn Bình” trực tiếp hoặc gián tiếp ám chỉ chính đảng CSVN là thủ phạm đã giết đồng chí của mình. Một số bài viết mang tính tuyên truyền, thanh minh thanh nga cho đảng, nhưng tất cả đều xoay quanh cái chết của Nguyễn Bình. Không có tài liệu nào chính thức nêu bằng chứng cụ thể, vì nó nằm trong những âm mưu của Đảng mà những người liên hệ, tuy còn sống cũng không dám hé răng. 2. Việt Cộng công nhận Nguyễn Bình là một đảng viên trung kiên yêu nước Tháng 12 năm 1945, nhận thấy Nam Bộ có nhiều đơn vị kháng chiến không chịu nhận lịnh của Cộng Sản, nên Hồ Chí Minh cử Nguyễn Bình vào Nam để “thống nhất các lực lượng vũ trang, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”, những ai đầu phục thì thu nhận rồi tìm cách ám sát sau, dưới những lý do “hy sinh” hoặc “tử trận”. Nguyễn Bình được phong chức Khu trưởng Khu 7, miền Đông Nam Bộ. Hồ Chí Minh nói “Bác trao miền Nam cho chú đó”. Ngày 25-1-1948, Nguyễn Bình được phong chức Trung tướng, là trung tướng đầu tiên của Quân Đội Nhân Dân. Trong đợt phong chức nầy, Võ Nguyên Giáp là Đại tướng và 9 người khác như Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiếu Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa và Trần Tử Bình được phong Thiếu tướng. Nguyễn Bình là trung tướng đầu tiên, có nghĩa là Võ Nguyên Giáp từ đâu nhảy ngang vào chức Đại tướng và cũng có thể Nguyễn Bình cũng nhảy ngang vào chức Trung tướng. Bức ảnh Trung tướng Nguyễn Bình khoác binh phục, đang ngồi trên lưng ngựa Ngày 21-3-1949, Hồ Chí Minh ký Sắc lịnh số 18-SL, cử trung tướng Nguyễn Bình làm Tư Lệnh Bộ Tư Lệnh Nam Bộ, lãnh đạo lực lượng vũ trang miền Nam chống Pháp. Sau nầy, Thượng tướng Trần Văn Trà đánh giá “Nguyễn Bình là người Cộng Sản trung kiên, một tướng lãnh quả cảm, nghĩa hiệp và tài thao lược. Công lao mãi mãi sáng ngời trên đài Tổ Quốc Ghi Công”. GS Trần Văn Giàu, nguyên là Bí thư Xứ Ủy Nam Kỳ cho biết “Đó là một vị tướng có tâm và tài trí của Nam Bộ”. Ngày 21-1-2000, QĐ số 52/BQP/QĐ cho thành lập đoàn công tác đi Campuchia tìm hài cốt Nguyễn Bình. Và ngày 26-2-2000, hài cốt Nguyễn Bình được mang về VN, làm tang lễ theo lễ nghi một tướng lãnh. Được truy tặng danh hiệu “Anh hùng Lực Lượng Vũ Trang” và huân chương Hồ Chí Minh. Một tướng tài trung với đảng, một lòng yêu nước như thế thì tại sao phải bị khai trừ, thủ tiêu? Dư luận cũng thắc mắc tại sao phải chờ tới 49 năm, khi có nhiều người nhắc nhở, đề nghị thì đảng mới cho đi tìm hài cốt, và tại sao không tặng huân chương và danh hiệu anh hùng ngay sau khi bị Tây bắn chết? 3. Trung Ương gọi Nguyễn Bình ra Bắc Nguyễn Bình lo lắng bất thường Vào tháng 5 năm 1951, Nguyễn Bình nhận được một bức thơ vắn tắt của Võ Nguyên Giáp nguyên văn như sau “Đồng chí thân mến, Đồng chí sẽ được một toán hộ tống 30 người gồm nhân viên tùy tùng và bảo vệ. Tôi tin rằng đồng chí sẽ hoàn thành nhiệm vụ nầy. Đồng chí sẽ đi đường rừng băng qua các tỉnh Kompong Chàm, Kratié, Stung Streng.” “Những người trong văn phòng anh ba Bình không hiểu lý do triệu hồi một viên tướng mà chính bác Hồ đã từng giao Nam Bộ trong những ngày “ngàn cân treo sợi tóc” “Bác trao miền Nam cho chú đó”. “Hai Giỏi, thư ký cũng là người bảo vệ, thấy anh Ba đăm chiêu, nghĩ ngợi, có vẻ lo lắng bất thường, trước lệnh của Trung Ương”. Dường như có linh tính báo trước Dường như có linh tính báo trước chuyến đi nầy may ít rủi nhiều, là một khúc quanh quan trọng trong cuộc đời, tuy Nguyễn Bình không nói ra, nhưng những người chung quanh nghĩ như thế. Nguyễn Bình lo lắng “việc ra Bắc” vì chính ông trước đây cũng đã ký những lịnh “đi Bắc” để đưa những đồng chí thân yêu lên đường đi vào cửa tử, đến bên kia thế giới. Trước khi lên đường, Nguyễn Bình NB đã viết thơ “tạm biệt” cho các bạn đã từng sống chết với nhau trên chiến trường. “Anh Ba nhớ đến người bạn đã chết như luật sư Lê Đình Chi, chẳng may bị máy bay bắn chết. Anh không quên luật sư Nguyễn Thành Vĩnh, người đã giúp anh đột nhập Sài Gòn năm 1946. “Ông Vĩnh đã yêu cầu mình cho một tiểu đội hộ tống về nhà tổ phụ ở Trung Lương Mỹ Tho đào 200 lượng vàng để làm công quỹ nuôi quân trong lúc cạn tiền”. Anh Ba soạn một số ảnh chụp chung với ông Vĩnh trong buổi lễ tấn phong trung tướng ở bờ kinh Dương Văn Dương, dán vào album nhỏ, gọi là lưu niệm chia tay. Ngoài ra, anh cũng viết thơ 5, 6 trang từ giả ông Lâm Thái Hoà, phụ trách pháo binh, bày tỏ nổi lòng của người ra đi không còn hy vọng gặp lại. Tất nhiên là không quên Tám Nghệ, người có tài vừa đánh giặc vừa làm thơ. Anh Ba yêu cầu Trung Ương cho khu trưởng Khu 7 Huỳnh Văn Nghệ Tám Nghê cùng đi về Việt Bắc, nhưng đề nghị đó không được chấp thuận. Anh Ba kiểm điểm lại tất cả những việc làm, từ thành tích, chiến công đến những va chạm với mọi người, với cấp trên. Nguyễn Bình nhớ lại Hoàng Thọ. “Vụ Hoàng Thọ, mình đã quá nuông chiều cậu nầy. Nuông chiều vì một lẻ nó là thằng em út đồng hương Hải Phòng, có nhiều điểm giống mình, anh hùng hảo hán, trung thực, ăn nói ngay thẳng. Khi Hoàng Thọ bất mãn bỏ tiều đoàn 303 thì mình nhận được lịnh trên phải đưa nó ra Trung Ương để báo cáo. Mình biết “ra TW” là con đường chết, là một bản án tử hình đối với những đồng chí có nhiều uy tín và chiến công trong đơn vị. Mình hết sức khổ tâm. Nó đã nhiều lần cứu mình thoát chết, không có Hoàng Thọ, thì mình đã mồ xanh cỏ từ lâu. Tuy biết rằng đó là hạ sách, nhưng lịnh trên khó cãi, và mình cũng phải tránh tội bao che cho đàn em làm bậy. Mình phải ký giấy đi đường và cho lộ phí.” 4. Vụ Hoàng Thọ Sự khủng bố của Việt Minh Trong thời buổi loạn lạc, các tay anh chị giang hồ lấy câu “tứ hải giai huynh đệ” kéo bè kết đảng, nổi lên xưng hùng xưng bá, mỗi nhóm một cõi bách hại dân lành. Họ tự cho mình là nghĩa hiệp sống bằng dao búa, giải quyết tranh chấp theo luật giang hồ. Đứng bến, đâm thuê chém mướn, dân đen có chút tiền của, ngày đêm nơm nớp lo sợ bọn đạo tặc, cướp ngày đó… Lúc bấy giờ Việt Minh nổi lên, thu phục bọn giang hồ dao búa làm tay chân. Những kẻ cướp của giết người ngày hôm trước, thì bỗng nhiên, ngày hôm sau thay hình đổi dạng trở thành bộ đội kháng chiến, như những tướng cướp Bảy Viễn, Ba Dương, Mười Trí, Nguyễn Phương Thảo là em kết nghĩa của nhà văn tướng cướp Sơn Vương, Trương Văn Thoại. Nguyễn Phương Thảo sau trở thành Trung tướng Nguyễn Bình, tư lệnh lực lượng võ trang chống Pháp Nam Bộ. Thủ đoạn của Việt Minh là, một mặt tuyên truyền mị dân, một mặt khủng bố trấn áp làm cho dân khiếp sợ mà phải phục tùng. Thành phần Việt Minh VM ban đầu rất phức tạp, người đàng hoàng thì ít, mà kẻ lưu manh thì nhiều. Thủ đoạn đó được các tay giang hồ dao búa thực hiện bằng cách chụp mủ “Việt gian, Phản động”. Hai cái tội nầy chỉ có con đường chết, và nhiều người dân chết tức tưởi, chết oan chết ức, chỉ vì chủ trương khủng bố dằn mặt để tạo uy thế, và sự vâng lời. Thế rồi, vào những đêm tối trời, một đám người mã tấu, đến gỏ cửa, bịt mắt dắt đi. Người phải giết thì chặt đầu, cắt cổ, mổ bụng dồn trấu, cho đi mò tôm, bên cạnh xác chết có một bản án hày tội việt gian, phản động. Người cần phải thả để tuyên truyền thì cho học tập chính trị vài ngày rồi thả về để tuyên truyền và chứng minh VM sáng suốt, không giết lầm người. Chính sách dùng “bạo lực cách mạng” và vừa đánh vừa xoa, bao giờ cũng thành công đối với đám dân ngu khu đen, mua gánh bán bưng, chân lấm tay bùn ở nông thôn. Người dân ở Tây Ninh mà nghe đến tên Hoàng Thọ thì sợ xanh mặt, đối diện, thì rụng rời tay chân, kẻ yếu bóng vía thì són đái ra quần. Về Hoàng Thọ Hoàng Thọ là tay anh chị thủ lãnh băng đảng cảng Hải Phòng, dáng người vạm vỡ, vai u thịt bắp, râu quai nón. Nhà nghèo, nên từ nhỏ phải vào nương tựa cửa Phật để có hai bữa ăn. Nhà sư thấy thương thằng bé siêng năng nhanh nhẹn, nên dạy võ nghệ để sau nầy dễ bề kiếm ăn. Năm 17 tuổi, Thọ cởi trần gánh nước, trên ngực lún phún một chùm lông. Thấy vậy, nhà sư im lặng quay đi, và từ đó chỉ dạy gõ mõ tụng kinh. Thọ nản lòng, cuốn gói từ biệt nhà chùa. Nhà sư lẩm bẩm râu rìa lông ngực là tôi phản thần”. Thủ lãnh bọn đầu gấu cảng Hải Phòng Thọ vào đời, xông xáo múa võ sinh nhai. Trên giang hồ Hải Phòng, Thọ nổi tiếng là tay tàn độc. Một lần, đụng độ với gả thũ lãnh bến tàu tên Luân Mặt Ngựa. Thọ hạ độc thủ. Đối thủ bị gãy chân nằm dài dưới đất, nhưng vẫn giữ phong độ thủ lãnh, giương mắt trừng trừng nhìn Thọ, có vẻ không phục hoặc hứa hẹn sẽ trả thù. Thọ đứng nhìn một hồi rồi lên tiếng “Mẹ kiếp! Dứt điểm mầy luôn để trừ hậu hoạ”. Nói xong, Thọ quỳ xuống, giương thẳng cánh tay với thế song chỉ đoạt ngọc châu, dùng 2 ngón tay phóng mạnh vào ổ mắt của Luân Mặt Ngựa. Cặp tròng lòi ra, máu me ướt cả mặt. Thọ lấy tay chụp, ném mạnh xuống đất, rồi dùng chân chà đạp. Thọ dạng chân ra, vạch quần đái vào mặt người bại trận, trước sự chứng kiến của đám đàn em đang mặt mày tái mét, im thin thít, bất động. Thọ thản nhiên bỏ đi. Và mấy ngày sau trở lại, nghiễm nhiên là thủ lãnh bọn đầu gấu của cảng Hải Phòng. Khi Nhật đảo chánh Pháp, tàu Nhật cặp bến Hải Phòng. Trước sự hùng mạnh của đạo quân Thiên Hoàng, băng đảng tan rả, phân tán tứ phương. Chớp lấy cơ hội, Hoàng Thọ xin vào hải quân Nhật, được dạy làm thợ điện. Ngày Nhật đầu hàng Đồng Minh, tàu Nhật rút lui. Hoàng Thọ thu thập đám đàn em, quay lại nghề cũ, với cái tên mới là Thọ Mạch Lô Tiếng Pháp Matelot là lính thủy. Khi Việt Minh cướp chính quyền, Thọ theo đoàn quân Cứu Quốc. Từ đó, trôi giạt vào Nam, làm tay chân của tướng Nguyễn Bình. Hung thần của Cao Đài tỉnh Tây Ninh Cả tỉnh Tây Ninh, ai nghe đến danh Hoàng Thọ cũng đều e dè khiếp sợ. Địa bàn hoạt động của Thọ là hai quận Gò Dầu Hạ và Trảng Bàng, và mục tiêu là những chức sắc Cao Đài, những người làm việc cho Pháp và những kẻ bị kết tội Việt gian, phản động. Người chết dưới tay của Hoàng Thọ đếm không xuể. Hành tung của Thọ vô cùng bí ẩn, thoáng hiện, thoáng biến khó lường. Trong thời loạn lạc, bóng đêm là thế giới của ma quỷ và tội ác. Khi mặt trời vừa tắt, Thọ nương theo khí âm trở về, xuất hiện dưới một bóng dáng oai hùng lẫm liệt. Hông trái với gươm dài, hông phải súng ngắn, trang bị theo cấp chỉ huy của quân đội xứ Phù Tang. Gươm ra khỏi vỏ là phải có máu. Thọ xuất hiện như tử thần, đi đến đâu là có đổ máu đến đó. Giết người trong chớp mắt mà không nháy mắt. Cắt cổ, chặt đầu, mổ bụng dồn trấu và cho đi mò tôm là sở trường thiện nghệ của Hoàng Thọ và của Việt Minh, trong khi thi hành mệnh lệnh của Nguyễn Bình và Trần Văn Giàu bí thư xứ ủy Nam Kỳ, chủ tịch Ủy Ban Hành chánh Lâm thời Nam Bộ. Khúc sông Vàm Cỏ Đông chảy qua 2 quận Trảng Bàng và Gò Dầu Hạ, là mồ chôn những nạn nhân của Việt Minh và nạn nhân của bọn thực dân Pháp. Người dân sống hai bên bờ sông, cứ vài ngày thì thấy một “thây ma chết sình” gọi là “chà chổng” nổi lình bình trên mặt nước. Nhìn vào vết tích của thi thể thì biết ngay thủ phạm là ai, VM hay là Tây sát hại. Tây thì trói thúc ké, đưa ra cầu Vên Vên, bắn xong hất xác xuống sông. Việt Minh thì không phí đạn, cắt cổ hay đập đầu. Việt Minh đã tấn công vào Tòa Thánh Tây Ninh, lực lượng bảo vệ do Trịnh Minh Thế chỉ huy, bị thất bại, nên một trung đội VM đã hạ sát đàn bà, trẻ em tại các nhà dân cách Tòa Thánh 100m. Trận đánh cuối cùng kết thúc cuộc đời binh nghiệp của Hoàng Thọ Hoàng Thọ còn có biệt tài đánh trận. Nổi tiếng gan lì, từng gây tổn thất lớn lao cho bọn thực dân Pháp. Hoàng Thọ được trung tướng Nguyễn Bình phong chức Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn ba lẻ ba 303, thuộc khu 7, miền Đông. Tiểu xảo phô trương lực lượng Vào đêm tối trời. Thọ cho quân di chuyển chung quanh làng. Cũng bao nhiêu quân đó mà cứ tiếp tục đi vòng quanh làng từ đầu hôm đến sáng. Từ đầu trên xóm dưới, chó sủa suốt đêm, kết hợp với tuyên truyền, dân chúng tin rằng “Đạo quân ông Thọ” lên tới hàng ngàn người. Trận đánh cuối cùng Hoàng Thọ mê chuyện Tàu, khoái nhân vật Hạng Võ, chủ trương quân cần tinh, không cần đông, hành quân thần tốc, dàn quân theo thế tử chiến, phía trước là địch quân, phía sau là chướng ngại vật không còn đường rút lui, như sông ngòi chẳng hạn, buộc binh sĩ chỉ có con đường là “cầm gươm ôm súng xông tới”, tìm chiến thắng và sự sống trong cái chết. Tiểu đoàn ba lẻ ba thường phục kích các đoàn công voa tiếp tế của Pháp theo chiến thuật như thế, và đã đạt được thắng lợi, thu hoạch được nhiều vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng. Nhiều lần lập được công lớn. Nguyễn Bình hài lòng và thương mến. Trong đời cầm binh, Thọ chỉ thất bại có một lần duy nhất, và cũng là báo hiệu chấm dứt cuộc đời của Hoàng Thọ. Theo chiến thuật cũ, Thọ đưa quân về Vên Vên Trà Võ, phục kích đoàn xe tiếp tế của Pháp. Nửa đêm, quân của tiểu đoàn ba lẻ ba đào hố cá nhân, ngụy trang độn thổ. Phía sau là sông Vàm Cỏ Đông, phía trước, bên kia con lộ là rừng cao su bạt ngàn, chạy về tới Cầu Khởi, tiếp giáp với chiến khu Bời Lời. Lúc 10 giờ sáng. Ba chiếc ôtô blindé xe bọc sắt mở đường vừa qua khỏi, thì đoàn công voa trờ tới. Thọ chờ cho cả đoàn xe lọt trọn vào ổ phục kích, liền nổ súng khai hỏa. Quân lính từ hố cá nhân tràn lên, giáo mác, súng mút cà tông Mousqueton súng trường, còn gọi là “quảnh tầm sào”, vì dài như cây sào xung phong ào ạt, khí thế mãnh liệt như chẽ tre. Nhiều xe bị cháy, nhiều chiếc lật xuống bên kia lề đường. Quân tiểu đoàn 303 làm chủ tình thế. Bỗng nhiên, từ trong rừng cao su trước mặt, bọn lính Lê Dương xuất hiện, tấn công mãnh liệt, vũ khí tự động như mi trai dết, tôm song Thompson, đã đè bẹp giáo mác và “quảnh tầm sào” bắn từng phát một với hộp đạn 5 viên. Tiểu đoàn Hoàng Thọ thất thế, không có đường rút lui, mà phía trước là hoả lực mạnh mẽ của Lê Dương, nên phải đánh cận chiến. Cảnh hỗn loạn xảy ra. Đội hình tan rả, hệ thống chỉ huy không còn, mạnh ai nấy đánh và tìm đường thoát thân. Tiếng la hét, súng liên thanh nổ dòn, những cây thịt ngã xuống. Trong cảnh hỗn loạn, không ai thấy Hoàng Thọ đâu nữa. Mưu mô, xảo trí và nhanh nhẹn như con sóc, không ai biết Hoàng Thọ thoát thân bằng cách nào. Chuồn về mật khu Bời Lời, kiểm điểm quân số, thì dưới tay Hoàng Thọ chỉ còn lại hơn 30 mạng, và gần 120 bỏ xác tại chiến trường. “Thói quen trong chiến thuật” đại kỵ đối với người cầm binh, không biết Hoàng Thọ có hiểu ra cái lý lẻ đó không? Chỉ có một bài bản, xử dụng tới lui, xào qua, nấu lại, thì “đi đêm có ngày gặp ma”. Hoàng Thọ giết đảng viên Năm Chiếu Sau thất bại chua cay, Hoàng Thọ nghi ngờ có gián điệp nằm vùng làm nội tuyến. Người mà Hoàng Thọ chiếu tướng là Lê Minh Chiếu, tự Năm Chiếu. Năm Chiếu là tay chân thân tín của Nguyễn Bình hoạt động nội thành, thường ra vào mật khu để báo cáo và nhận chỉ thị. Hoàng Thọ cho người phục kích bắt Năm Chiếu trên đường trở về thành, đem đến cái lều hoang giữa rẫy bắp ở ven rừng. Thọ mình trần, ngồi trên chõng tre dõng dạc hỏi tội Năm Chiếu. Năm Chiếu mặc đồ đen, khăn rằn quấn cổ, mặt không hể đổi sắc – Loạn rồi! ông biết tôi là ai không mà dám nói thế? – Mầy là thằng điềm chỉ cho Tây. – Ông không đủ tư cách để nói câu đó! Năm Chiếu cười mỉa. – Tao đập đầu mầy như đập một con chó phản bội, Thọ gầm lên. Nói xong, Thọ ra lệnh trói Năm Chiếu lại và dẫn đi. Năm Chiếu quay lại nói “Anh em có mặt ở đây xin báo cáo việc nầy lên đồng chí Nguyễn Bình”. Hoàng Thọ xô Năm Chiếu chúi nhủi về phía trước và nói “Nguyễn Bình không cứu nổi mầy đâu”. Thọ dẫn Năm Chiếu đến cái giếng lạn ven rừng, đưa khúc gỗ đập mạnh vào ót và đạp xác xuống giếng. Khi Hoàng Thọ trở lại lều, có người nói “Năm Chiếu là đảng viên đó”. Thọ vung tay bất cần “Đảng cái con buồi tao!” Ít lâu sau đó, Hoàng Thọ được gọi về gặp Nguyễn Bình. – Sao giết Năm Chiếu? Nguyễn Bình hỏi. – Hắn là gián điệp cho Tây. – Hồ đồ! Năm Chiếu là người của Đảng, chú dám tự tiện ra tay, không cần chỉ thị cấp trên. Chú đương là đối tượng được đề nghị kết nạp, nhưng vô kỷ luật không còn xứng đáng nữa!. Thọ quen thói du côn, coi trời bằng vung, không biết sợ là gì “Thọ nầy đi kháng chiến vì dân vì nước, không cần Đảng. Đảng chỉ là bọn bè phái bênh vực cho nhau”. Lời vừa ra khỏi miệng, Thọ biết đã lỡ lời. Nguyễn Bình cười nhạt, đuổi Thọ ra ngoài chờ chỉ thị. Hoàng Thọ được chỉ thị ra Trung Ương nhận công tác mới. Con cáo tinh ranh biết được đường ra Bắc là đường không có điểm đến, đó là con đường chỉ có cửa tử, mà Thọ cũng đã nhiều lần đẩy người khác trên con đường đó vào cõi chết. Nhớ lại vụ Kiều Đắc Thắng, một hung thần đã từng thi hành những bản án “Việt Gian”, Phản Động” mà Trần Văn Giàu và Nguyễn Bình kết tội. Kiều Đắc Thắng đã ám sát ông Phan Văn Hùm tại quê của ông là Bún, Lái Thiêu vào tháng 10 năm 1945. Về sau, thấy Thắng quyền hành quá lớn, muốn vượt qua mặt Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Trấn Bảy Trấn nên Nguyễn Bình đã gởi Kiều Đức Thắng “ra gặp bác Hồ”. Kiều Đắc Thắng được đổi tên là Vũ Tùy Nhàn, rồi người bị giết trên đường đi là Vũ Tùy Nhàn nên không gây xôn xao trong ba quân. Thọ rời kháng chiến, đi biệt tích, xem như cái tên Hoàng Thọ không còn tồn tại trên đời nầy nữa. Một năm sau. Có một người khách từ miền Bắc đến Mỹ An. Khách nói năng hoạt bác, sành đời. Khách mở một quán lá bên đường, ven bờ kinh Nguyễn Văn Tiếp, làm kế sinh nhai. Người dân Đồng Tháp Mười gọi chủ quán là ông Bắc Kỳ. Một năm sau nữa. Có một người khách lỡ đường, ghé quán ông Bắc Kỳ xin trọ qua đêm. Trời chiều. Con kinh chạy dài hai bên bờ dừa nước mênh mông vắng lặng. Chủ khách nói chuyện tâm đắc bên ly rượu nồng. Khách nhận xét chủ quán, ông có phong cách của người chỉ huy quân sự, ăn nói lớp lang, rành mạch, dứt khoát rõ ràng, đâu ra đó. Ông Bắc Kỳ cười, đáp “Lấy hình tướng để xét thực tướng là cái sai nhất của người đời”. Ông khách đáp “Ở đời, thực giả lẫn lộn nhau, qua cái giả để nhận ra cái thật, qua hiện tượng để nhận ra bản chất”. Nửa đêm hôm ấy, ông Bắc Kỳ chủ quán bị bắt đem đến kinh 12, Đồng Tháp Mười. Ông khách nửa đùa nửa thật “Năm Chiếu ở Suối vàng gởi lời thăm Hoàng Thọ và nhắn xuống dưới chơi.” – Mầy là ai? Ông Bắc Kỳ hỏi. – Tôi là bạn của Năm Chiến, được chỉ thị của đồng chí Nguyễn Bình đi tìm Hoàng Thọ bấy lâu nay. Biết cuộc đời chấm dứt, Hoàng Thọ lớn tiếng chửi Đảng, tàu xà lúp chở không hết. Thọ bị đập đầu ngã xuống đất, cơ thể co giật như thằn lằn đứt đuôi, địt tèn tẹt, cứt già cứt non bắn ra ướt cả đáy quần. Ông khách cho lịnh phá nát khuôn mặt Hoàng Thọ để không còn ai nhận ra được danh tánh, và Đảng đã đứng ngoài việc thanh toán cựu công thần nầy. Chuyến đi nầy thật sự không còn Hoàng Thọ trên đời nầy nữa. Nợ máu phải trả bằng máu. 5. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Bình Tóm tắt tiểu sử Nguyễn Bình tên thật là Nguyễn Phương Thảo, sinh năm 1906 tại xã Tịnh Tiến, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Năm 11 tuổi về ở với người anh cả làm công chức ở Hải Phòng. Năm 17 tuổi thôi học năm thứ hai trung học, sau đó làm thủy thủ trên chiếc tàu Pélican của hảng Messagenés Maritimes chạy tuyến Sài Gòn-Marseille Pháp. Sau đó, bỏ tàu, về sống ở Khánh Hội. Kết nghĩa anh em với tướng cướp Sơn Vương Phương Thảo có máu giang hồ, thích phiêu lưu mạo hiểm nên kết nghĩa anh em với nhà văn-tướng cướp Sơn Vương, Trương Văn Thoại. Tham gia vụ cướp tiền của tên Tây René Gaillard, phó giám đốc đồn điền cao su Mimot, Cam Bốt, giáp ranh với Tây Ninh, thu được số tiền 50 ngàn đồng. Phương Thảo mở tiệm giặt ủi Thảo Sơn ở ĐaKao. Sau vụ cướp, Sơn Vương bị đi tù Côn Đảo. Nguyễn Phương Thảo gia nhập Việt Nam Quốc Dân đảng Phương Thảo kết bạn với nhà báo Trần Huy Liệu và được Liệu móc nối vào Việt Nam Quốc Dân đảng. Sau vụ khởi nghĩa thất bại ở Yên Bái, VNQDĐ bị phân tán. Trần Huy Liệu và Nguyễn Phương Thảo bị bắt, án tù 5 năm, đày đi Côn Đảo. Trong tù, Trần Huy Liệu được tù CS móc nối nên có khuynh hướng CS. Vì thế, tù VNQDĐ lên án tử hình và cắt cổ, nhưng Trần Huy Liệu thoát chết. Phương Thảo bị móc một mắt bằng bàn chải đánh răng mài nhọn. “Bị mất con mắt trái bởi đồng đảng, nhưng Phương Thảo như sáng ra, nhận thấy việc tham gia VNQDĐ là sai lầm, chủ nghĩa tam dân chỉ là lý thuyết suông”. Từ đó, kinh nghiệm sống dựa trên nguyên tắc “Đánh lưỡi 7 lần trước khi nói”, “động não 7 lần trước khi quyết định tham gia đảng chính trị”. Vì thế, sau khi mãn tù về Hải Phòng, Phương Thảo đã từ chối đề nghị của Trần Huy Liệu, quyết không vào đảng Cộng Sản. Nguyễn Bình lập căn cứ chống Pháp Năm 1936, khi mãn hạn tù, bị trục xuất về nguyên quán Hải Phòng, Phương Thảo tuyên bố ly khai VNQDĐ, đổi tên thành Nguyễn Bình và cũng quyết định không vào đảng CSVN. Nguyễn Bình lập căn cứ Đông Triều chống Pháp, uy thế gia tăng. Theo Việt Minh sau cách mạng Tháng Tám năm 1945. Tháng 12 năm 1945, Hồ Chí Minh cử Nguyễn Bình vào Nam Bộ. Năm 1948 được kết nạp vào đảng CSVN. Ngày 29-9-1951, bị Tây phục kích giết chết trên đường ra Việt Bắc. 6. Những trang nhật ký cuối cùng Ngày 26-7-1951, khi được lịnh ra Bắc, Nguyễn Bình cùng 22 nhân viên khởi hành từ Tân Uyên qua Cam Bốt để ra Bắc. Nhật ký của Nguyễn Bình viết “Đi từ Sốcky đến Suối Đá, rồi từ đó đi Tà Nốt, tôi phải nằm trên xe bò vì bịnh ngày càng nặng. Bác sĩ ở Cam Bốt cho biết, phải tạm nghỉ 2 tháng nếu không muốn ngã quỵ trên đường đi. Tôi nghĩ, phải nghỉ 2 tháng, rồi đến 3 tháng mùa mưa nữa mới tới TW ở Việt Bắc thì không thể được, vì một năm không hoạt động trong tình hình kháng chiến ác liệt, nên tôi quyết định ra đi. 80% đoàn bị sốt rét, 4 chiếc xe bò chở không hết. Gạo sắp hết. Giữa đường xe bò bị gãy trục là một điềm xấu. Ngày 21-9-1951, tất cả đều bịnh, tôi phải vào bếp nấu cơm cho cả đoàn. Hai trinh sát viên đi liên lạc có thể đã bị bắt cho nên các đồng chí ở Nackor đã không hay biết gì đến chúng tôi. Ngày 23 tháng 9, tôi quyết định thay đổi lộ trình để tránh gặp địch. Ngày 24, không còn gì ăn. Ngày 25, 26, 27 anh em câu được vài con cá đem nấu canh me. Ngày 29-9-1951, sáng ra, cho người đi mua khoai sắn nhưng không có.” Trưa ngày 29-9-1951, trung tướng Nguyễn Bình bị phục kích và hy sinh. Nhật ký chấm dứt. 8. Tại sao Cộng Sản giết Nguyễn Bình Đây là một âm mưu giết hại “công thần” cho nên được xếp vào loại tuyệt mật. Phái đoàn Nam Bộ ra Bắc báo cáo tình hình Năm 1948, một phái đoàn Nam Bộ do Trần Văn Trà hướng dẫn ra Bắc báo cáo tình hình kháng chiến Nam Bộ. Nguyễn Bình cử người thân tín là Lương Văn Nho tháp tùng, và căn dặn, sau khi báo cáo phải xin phép về miền Nam liền. Thế nhưng, khi Nho xin phép, thì Võ Nguyên Giáp yêu cầu ở lại làm bản “đánh giá công tác vận động giang hồ tham gia kháng chiến”. Bản đánh giá được xem như bằng chứng mà Nguyễn Bình đã xử dụng đám lưu manh, đầu trộm đuôi cướp vào cuộc kháng chiến và đã phá hoại uy tín của Đảng, tạo lý do khai trừ. Sau khi viết xong bản đánh giá, Lương Văn Nho cũng không được về Nam Bộ, mà được cử đi học ở Liên Xô. Thành lập lực lượng chỉ đạo kháng chiến Nam Bộ Thay ngựa giữa dòng Sau khi nghe Trần Văn Trà báo cáo tình hình, thì đảng thành lập ban chỉ đạo kháng chiến Nam Bộ do Lê Đức Thọ lãnh đạo với sự tham dự của tướng Lê Hiếu Mai, Minh Đạo và đầy đủ thành phần các ban bệ như tình báo, chính trị, các đoàn thể như thanh niên, phụ nữ… Lực lượng chỉ đạo nầy vào Nam thay thế Nguyễn Bình. Đồng thời, Nguyễn Bình được triệu hồi ra Bắc. Nói cụ thể là loại trừ Nguyễn Bình, là người đã hết vai trò xử dụng. Thay ngựa giữa dòng. Giả thuyết về những biện pháp loại trừ Nguyễn Bình – Có ý kiến cho rằng Hồ Chí Minh chỉ muốn đưa Nguyễn Bình ra Bắc còn sống, nghĩa là không chận giết dọc đường. – Cũng có ý kiến cho rằng Trung Ương đã mật báo cho Tây biết lộ trình của Nguyễn Bình để mượn dao giết người, ném đá giấu tay. – Một ý kiến khác cho rằng Mao Trạch Đông yêu cầu Hồ Chí Minh cải tổ đảng, loại trừ những thành phần trước kia là đảng viên các đảng chính trị khác, như Nguyễn Bình đã từng là đảng viên VNQDĐ, lý do nầy không vững, vì Trần Huy Liệu trước kia cũng là đảng viên VNQDĐ, nhưng không bị khai trừ. Nói chung, Nguyễn Bình đã chết dưới tay của đảng CSVN. 9. Kết Nguyễn Bình đã giết đồng đội của mình là Ba Nhỏ, Hoàng Thọ, Kiều Đắc Thắng và tới phiên hắn, cũng bị các đồng chí Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp diệt trừ. Đó là điển hình của tình đồng chí Cộng Sản và những bản án tử hình. Và đó cũng là truyền thống của các đảng Cộng Sản thế giới. Đứng đầu là Staline của đảng Cộng Sản ở Nga. Người mà Tố Hữu của đảng Cộng Sản VN ca ngợi và noi gương “Giết, giết nữa bàn tay không phút nghỉ Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong Thờ Mao Chủ Tịch, thờ Xích Ta Lin bất diệt!” Tố Hữu Chỉ trong 2 năm 1937 và 1938, Staline đã cho xử bắn 1,548,367 người, tính ra trung bình có 1,000 người bị giết mỗi ngày. 14 trong 15 đồng chí Bolshevik trừ Staline ra bị xử bắn và thủ tiêu. 3 trong 5 nguyên soái bị tử hình. 3 trong 5 Tổng tư lịnh QĐ bị tử hình. 10 Phó tư lịnh bị tử hình. 57 trong 85 tư lịnh quân đoàn bị tử hình. 110 trong 195 tư lịnh sư đoàn bị tử hình. Ở Trung Cộng, Mao Trạch Đông đã giết những đồng chí thân cận nhất của hắn, như Bành Đức Hoài, Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu… Cộng Sản VN thì nhẹ nhàng và kín đáo hơn. Vụ 7 tướng lãnh trong đó có tướng Đào Trọng Lịch bị chết tai nạn trong chuyến bay công tác sang Lào. Đoàn cán bộ cao cấp quân đội chết nạn trong chuyến bay thăm đảo Sơn Trà. Cái chết đột tử của 2 đại tướng Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn. Hoàng Văn Hoan phải đào tẩu mới sống sót. Khi gọi nhau bằng “đồng chí” trong các câu chuyện đối đáp nhau thì báo hiệu là sẽ có vấn đề sanh tử, và đồng chí đi liền với đồng rận. Chí và rận cùng loại như nhau. Trúc Giang Minnesota ngày 13-7-2012 Ai là Anh Cả Quânđội Nhânzân Xứ Lừa? 1 Câuhỏi này tưởngchừng đơnjản, nhưng trảlời đéo zễ, kểcả với các sửviên hàngđầu Xứ Lừa. Bởi nếu chúng nói thật, chúng sẽ thành nói zối. Các cô sẽ đéo chấpnhận any lời nói thật, thế mới là Lừa, quân búzù. Trước tới nay, ngót một thếkỷ, jáokhoa Lừa luôn zậyzỗ các cô, rằng Anh Cả của quânđội các cô chính là anh Thốngchế RIP anh. Đcm còn ai khác nữa? Anh Thốngchế đẻ ra quânđội tháng 12 năm 1944. Anh đeo bao boọchoọc bao only, không có cả súng lẫn đạn sừngsững 1m50 trước đoànbinh 34 anh nôngzân bắnđòm, mão calô lệch trán, jơ tay lên đầulâu thềthốt hysanh xươngmáu. Đành rằng quânđội của nhânzân Lừa đã có từ lâu trước anh Thốngchế. Quânđội chống Fáp Lợn cũng. Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học.. đều triểnkhai binhlính đánh Fáp trước Ông Cụ nhiều năm. Nhưng vì những lýzo cánhân nhỏmọn, Ông Cụ đéo chấpnhận các lựclượng đó, zù chúng cũng cùng lýtưởng chống Fáp với cụ củ. 2 Khi Ông Cụ từ China lẩn về Bắc Lừa tính chuyện binhbiến 1940, thì Nguyễn Bình, Chu Văn Tấn, đều đã triểnkhai quânđội, và địnhhướng fụctòng Ông Cụ. Nguyễn Bình nguyên là tướng caocấp trong lựclượng Quốczânquân của Nguyễn Thái Học. Nhưng zo tranhjành quyềnbính với đồngnghiệp khi boss mới tèo, Bình bị đệ của Học đâm thủng mẹ một mắt, thành Bình Chột. Việc này khiến Bình hậnthù Quốczânquân rất, và xin theo Ông Cụ. Quânđội lykhai Quốczânquân của Bình hoạtđộng từ 1936, khi anh Thốngchế còn đang làm mậtthám, mang-tên Bìnhthiênquân, rất janghồ hunghãn, đánh Fáp nhanh như rửa đít. Chấpnhận theo Ông Cụ, Bình bị cụ củ buộc đổi tên Bìnhthiênquân thành Vệquốcđoàn, đồngthời vác toànbộ 3,000 chiếnbinh Vệquốcđoàn đấy nhập lựclượng anh Thốngchế, vốn kém Bình rất xa cả về tàinăng, bảnlãnh, thựclực, và kinhnghiệm, với vỏnvẹn ba chục anh bộđội thối mồm đéo anh nào biết bóp-cò súng mútcơtông. Việc này khiến Bình cáukỉnh bứcxúc, và bỏ vào Nambộ theo lãnhtụ Ba Zuẩn. Tại chiếntrường Nambộ, Bình khinh luôn anh Ba Zuẩn, và bị anh này đập chết tươi. Khi chết, Bình đang đeo hàm trungtướng bộđội Ông Cụ trungtướng zuynhất 194x, không có thượngtướng, nghĩa là chứcvụ chỉ sau anh Thốngchế đạitướng trong Quânđội Nhânzân, trên cả các anh Nguyễn Sơn cựu-tướng của anh Mao China, Chu Văn Tấn, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Thái, Trần Đại Nghĩa, etc. Anh Nguyễn Chí Thanh năm nẳm thậmchí còn chưa thành bộđội. 3 Chu Văn Tấn nguyên là tướng thổphỉ miền fùzung anhtúc, lẫylừng một thuở. Tấn thậmchí có quânđội chống Fáp riêng trước cả Nguyễn Bình, vào quãng 1934. Bộđội của Tấn đánh Fáp nhanh như rửa đít cũng, tên là Cứuquốcquân. Khi Ông Cụ thufục được Tấn 194x x Việc này khiến Tấn điênkhùng và zọa lykhai Việtminh. Ông Cụ xoazịu Tấn bằng cách hứa tặng Tấn chức bộtrưởng quốcphòng tươnglai. Ông Cụ buộc fải hứa, vì Cứuquốcquân của Tấn chính là vệbinh ngựlâm bảovệ cụ củ trước vụ cướp chínhquyền 1945. Không có chúng, cụ củ chết chắc đừng lèonhèo. Mà cụ củ năm nẳm 1940-1941 nếu không vuốtve Tấn cẩnthận thì Tấn cũng đập chết ăn thịt luôn, bởi anh ý là toọc. Và Cứuquốcquân của Tấn với Kiên mới chính là quânđội cáchmạng đầutiên zưới triềuđại Ông Cụ, chứ đéo phải Giảiphóngquân của anh Thốngchế, thànhlập tháng 12 năm 1944. Ông Cụ sau đã jữ lời hứa với Tấn, nghiêmtúc fết. Tấn chính là bộtrưởng quốcphòng đầutiên của Lừa cộngsản. Anh Thốngchế bị tống sang bộ nộivụ. Việc này khiến anh Thốngchế caycú rất, nhưng anh ý đéo zám bật. Suy cho cùng, Tấn cũng lại là hạng vượt rất xa anh Thốngchế cả về tàinăng, bảnlãnh, thựclực, và kinhnghiệm. 4 Phùng Chí Kiên mới là nhânvật quantrọng nhất của loạt cồng này đcm thế mới tài. Anh ý làm đảolộn mẹ câu trảlời cho câuhỏi Zì đã đặt từ cồng đầu. Trong đám đệ Ông Cụ, Kiên thuộc hàng râmran giàhói, tấtnhiên không tính bọn Thắng Đần aka Tôn Đức Thắng 1888, Bùi Tồ aka Bùi Bằng Đoàn 1889, và các thểloại búpbê ngộnghĩnh khác. Đám này chưa baogiờ nhận là đệ Ông Cụ. Ông Cụ cũng đéo chấpnhận các anh ý làm đệ. Các anh ý gọi Ông Cụ bằng Cụ chứ đéo gọi bằng Bác. Đó hầunhư là một sỉnhục. Kiên 1901 chỉ kém tuổi Hồ Tùng Mậu 1896, nhưng hơn tuổi cả những anh được coi là bôlão côngthần bậusậu như Lê Hồng Phong aka Phong Bần 1902, Nguyễn Lương Bằng aka Anh Cả Đỏ 1904, Trần Phú aka Chú Lé 1904. Ông Cụ fongcách jatrưởng bầnnông trungkỳ nhỏmọn, chỉ khoái bọn tintin nonnớt, chứ đéo ưa bọn jàhói. Đệ thântín của Ông Cụ chỉ có Phạm Văn Đồng aka Đồng Vều 1906 là jà nhất hiếmhoi. Anh Kiên kém Ông Cụ tận chục tuổi, mà vẫn bị cụ củ coi là quá jànua nhănnhúm. Ông Cụ rất sợ bọn đệtử jàhói sẽ tinhtướng ngôngnghênh gànbướng mà ảnhhưởng côngnghiệp cụ củ. Nên anh Kiên cũng như anh Phong, anh Phú, anh Mậu, chắcchắn sẽ bị cụ củ mượn tay Fáp Lợn tỉn chết sớmsủa. Anh Bằng quá hãm và nhát, đéo tính. Cụ củ sẽ chỉ tuyểnzụng những nhiđồng ngoanngoãn bảo sao nghe vậy, tầmcỡ anh Thốngchế 1912, anh Lê Quảng Ba 1914, thậmchí anh Phùng Thế Tài 1920. Thậntrọng vậy mà cụ củ vẫn bị anh Ba Zuẩn 1907 đập chết ăn thịt, thế mới cún. Đây là thuật zùng-người truyềnthống của các lãnhtụ tàinăng hạnchế. Vì kém-tài, các anh ý cần trauzồi một fongđộ bềtrên kẻcả, lấy thâmniên tuổitác làm uytín chánhtrị, Lừa kêu là Đức đứcđộ và Thần thầnthái. Ông Cụ jàzặn hơn bọn đệ ruột đến 20 năm, mà vẫn nuôi râu bờmxơm quá ngực, bận áo cánh bàba, xỏ chân guốc lộccộc, đéo cưới phunhân, đéo nhận nhiđồng, nhằm thêm fần chachú. Ông Cụ không là lãnhtụ Lừa đầutiên thựchành chiếnlược đó. Lê Lợi đã từng, rồi Trần Thủ Độ, Nguyễn Nhạc anh ruột Hồ Thơm, vài anh nữa. Các anh ý có điểm chung đều là bậc khaiquốc, chẳng được truyền ngôi. Anh khaiquốc nào tinzùng bọn đệ jàhói ngangfân thường bị chúng đập chết ăn thịt luôn, như Lê Hoàn, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh. Anh Lê Lợi cũng suýt tiêutòng với vụ zùng anh Nguyễn Trãi, nhưng maymắn kịp sửa sai. Anh Kiên được chính các lãnhtụ Sô Liên lẫn China bảolãnh và tiếncử. Về mứcđộ trungthành với lýtưởng cộngsản, anh ý là số 1, từng thamgia cả hồngquân Sô Liên lẫn hồngquân China Mẹ, đóng sĩquan caocấp, và zứtkhoát đéo đầuhàng bọn Nhật, bọn Fáp, và cả bọn Tàu Tưởng. Các cô thấy, lãnhtụ cần đéo jì các cô trungthành với lýtưởng? Lãnhtụ chỉ cần các cô trungthành với chính lãnhtụ. Các cô nghĩ các cô cứ lýtưởng lýtưởng lýtưởng thì được thăngtiến nên côngtrạng hoànhtráng à? Ngu đéo jì ngu thế hehe. Anh Kiên là một người như vậy. PS. Sorry ở một cồng fía trên Zì ghi nhầm năm anh Thốngchế thànhlập Giảiphóngquân là 1941. Đínhchính fát cho hànlâm nhẻ. 5 Kiên Phùng tuy bầnnông trungkỳ nhưng họchành khá chỉnchu chuyênnghiệp. Anh ý từng học trường sĩquan lụcquân Hoàngphố lừngzanh bên Mẹ China, sưfụ của anh tuyền caothủ gộc thốngchế Tưởng Giới Thạch, chuẩntướng Diệp Kiếm Anh, chínhủy Chu Ân Lai, cùng nhiều anhem quanlại Sô Liên khác nữa. Kiên học bộbinh là chính, nhưng thựchành cả fáobinh và cơjới. Trần Canh, một đồngchí Khựa được Ông Cụ coi như “thánh cốvấn lụcquân”, tổng chỉhuy chiếnzịch Điện Biên Phủ, chính là một bạn đồnghọc của Kiên. Anh Lê Hồng Phong, tìnhđịch Ông Cụ, cọcchèo của anh Thốngchế, cũng đồnghọc Kiên luôn. Học xong trường Hoàngphố, Kiên thamja bộđội anh Mao tấncông luôn thày của mình aka anh Tưởng, thành một trungđoàn-trưởng. Anh đánh vài trận, có thua có thắng, rồi được tuyển vào đảng Mao China hệt các anh Lê Hồng Phong, Nguyễn Sơn, etc, rồi sang Sô Liên thụjáo các đạica vôsản trong Đôngfương Họcviện và vài trường khác. Tại Sô Liên, anh học tiếp ngành tácchiến lụcquân và học thêm ngành chuyênchính vôsản, trongkhi anh Phong học lái tàubay. Đầu 1940, Kiên chính là tưlệnh commander của Ông Cụ. Anh zắt Ông Cụ bươnchải khắp China qua Bắc Lừa sang Hạ Lào, vào hang rồi lên núi, lội suối rồi leo cây, cỡi ngựa rồi săn gái mama anh Mạnh sinh anh trúng zịp này nha, everything everywhere. Không có Kiên thì Ông Cụ bốc cứt nhai vã và đếm jun jải khuây hàng ngày. Kiên màymò tổchức một trungđội toọc liềumạng, lúc nào cũng lận đầy thủfáo trong bụng, loanhquanh hầuhạ Ông Cụ. Saukhi anh Hoàng Văn Thụ thufục được Cứuquốcquân của anh Chu Văn Tấn, Ông Cụ bắt Tấn và tậpđoàn anhem Cứuquốcquân fụctòng Kiên mọi nhẽ. Tấn cũng được fâncông làm fótướng cho Kiên. Tấn khá cáukỉnh, nhưng Ông Cụ cũng zànxếp okay. Đúng lúc này, anh Thốngchế thôi hợptác với phòng-nhì Deuxième Bureau, chínhthức theo Ông Cụ. Đươngnhiên anh ý fải làm fótướng cho Kiên, như anh Tấn Toọc. Rõràng, xét trên mọi khíacạnh, thì Kiên Phùng chính là thốngsoái đầutiên của bộđội Ông Cụ. Nhưng đéo hiểu sao Ông Cụ không tin Kiên. Cụ củ zùng Kiên như zùng chó săn. Nhẽ cụ củ nghi Kiên trungthành với quốctế cộngsản với Linh Sôliên, với Mao China hơn với mình? Đươngnhiên, đến một mùa nhạtmáu, chó săn fải thăngthiên. Kiên trong liền 3 ngày zính liền 3 trận fụckích của bộđội Fáp, mộtcách ngẫunhiên bíhiểm. Kiên đéo chống được, bị tóm sống, và bị chặt mẹ đầulâu. Hơn 3 năm sau, anh Thốngchế và Ông Cụ lọmọ thànhlập một đạobinh khác, cuối 1944. Ông Cụ khăngkhăng, đó mới là quânđội nhânzân đầutiên. Sảnfẩm của Ông Cụ, cụ củ đặt tên đéo nào chả được? Cụ củ ban côngzanh cho anh Thốngchế, thì anh ý được hưởng mưamóc. Kiên Phùng đéo maymắn, đến mạng cũng đéo còn, fải chịu trầnjan quênlãng thôi. Nhưng mọi chuyện đéo zừng ở đấy. 6 Thảoluận chútđỉnh zịkhảo nha, trước khi theozõi tiếp vụ anh Phùng Chí Kiên. Anh Thốngchế theo cáchmạng Ông Cụ rất muộn. Mãi cuối 1940 anh ý mới bám chân anh Phạm Văn Đồng aka Đồng Vều bỏ Hanoi lên chiếnkhu mò Ông Cụ. Cũng trong năm nẳm, chị Quang Thái vợ anh bị bọn Fáp Lợn tóm và tống jam, gòi tèo. Năm nẳm anh Thốngchế đã trungniên, tròmtrèm tamthập, đang làm jáovụ tại một trường tiểuhọc nộithành Hanoi, thuộc sởhữu của anh Hoàng Minh Giám, một thanhniên tâyhọc tiếngtăm. Jáokhoa Lừa chép anh Thốngchế làm jáosư môn lịchsử trường trưởng. Chả có jáosư jáosãi nào đâu. Fịa đấy. Vụ này anh Giám đã vài lần thanhminh, nhưng không zám côngbố rộngrãi. Hãy so tuổi theo cáchmạng của các côngthần Ông Cụ như anh Đồng Vều 20, Trường Chinh aka Chinh Khu 22, Lê Duẩn aka Ba Zuẩn 22, Lê Đức Thọ aka Sáu Búa 19, Phạm Hùng 18, Trần Quốc Hoàn 18, Chu Huy Mân 17, Nguyễn Chí Thanh 23, Nguyễn Lương Bằng 25, Hoàng Quốc Việt 24, thậmchí các vàngson Quang Thái 15, Minh Khai 20, Thị Thập 23, etc, thì thấy anh Thốngchế không yêu Ông Cụ sớm, nếu không muốn nói là hehe quá muộn, theo fongcách “trở-cờ”. Đời cáchmạng anh chỉ tươngđương các anh Xuân Thủy 30, Lê Trọng Tấn 30, không khác mấy các anh Trần Đại Nghĩa 33, Hoàng Minh Giám 41, Nguyễn Bình 40, aka đám “trở-cờ” kinhđiển. Như vậy, các cô thấy, ngay trong đảng mình, anh Thốngchế chưa baojờ được coi là bậc tiềnbối. Những bộđội thuộccấp của anh như Hoàng Văn Thái 23 1938, Lê Thiết Hùng 22 1930, Lê Hiến Mai 22 1940, Hoàng Sâm 18 1933, Văn Tiến Dũng 20 1937, đều tiềnbối hơn anh nhiều boong, cả về thâmniên, lẫn thờiđiểm, lẫn tuổi thamja cáchmạng. Vì nhẽ đó, anh Thốngchế rất hay bị thuộccấp bật như tôm, chưởi đù mẹ đù cha là thường. Nhưng anh cũng chẳng để-bụng thậmchí chẳng fànnàn. Đó hầunhư là một ưuđiểm, và được nhiều chiếnbinh lìutìu thánfục. Chúng nể anh ở chữ Nhẫn. Anh Sáu Búa khi họp lãnhtụ chỉ gọi anh là Anh Văn, chả baojờ gọi anh bằng chứczanh mà anh khoái đạitướng tổngtưlệnh. Anh cũng chẳng fiền. Đáng tiếc, chữ Nhẫn không thể là fẩmchất của bậc zanhtướng. Anh Thốngchế, RIP anh, nhưng anh có hiểu điều đó không? 7 Tiếptục thảoluận chút zịkhảo trước khi theozõi tiếp vụ anh Phùng Chí Kiên. Cuối 1944, Ông Cụ chỉđạo anh Thốngchế cùng anh Hoàng Văn Thái thànhlập Đội Vietnam Tuyêntruyền Giảiphóng. Ngay cách đặt tên mớimẻ này so với Cứuquốcquân, Vệquốcđoàn hàonhoáng trước đấy, cùng với việc jao tráchnhiệm cho anh Thốngchế nontơ chả kinhnghiệm chiếntranh mẹ, đã cho thấy Ông Cụ đéo tintưởng lắm vào thànhcông của cáchmạng, cũng đéo tintưởng những tay võbiền khoái đụngđộ đâmchém như Kiên Phùng. Ông Cụ chỉ zám gọi lựclượng vệbinh mới của mình là Đội Team, và cẩnthận thêm chữ Tuyêntruyền Propaganda vào trước chữ Giảiphóng Liberation, hàmý, lựclượng này chỉ làm nhiệmvụ tuyêntruyền là chính, và quymô nhonhỏ xinhxinh thôi. Biênchế Đội của anh Thốngchế cũng khiêmtốn hơn Quân của anh Kiên anh Tấn nhiều boong, vỏnvẹn 34 chiếnbinh toọc, aka 3 tiểuđội. Các anh cũng đéo trangbị võkhí. Súng boọchoọc anh Thốngchế đeo bên sườn chỉ có vỏ chứ không có ruột. Anh Thái thậmchí chỉ đeo gươm. Các anh ý cần đéo jì đến súng fỏng. Các anh khác cũng. Jảzụ Ông Cụ không thànhcông lần nữa, năm 1945 đéo cướp được chánhfủ của anh Trần Trọng Kim, thì anh Thốngchế cũng lên đường theo anh Kiên thôi. Ông Cụ tàihoa vụ này nhất. Và đươngnhiên một quânđội khác sẽ được thànhlập, với những biênchế mới, nhiệmvụ mới, chiếnlược mới. 8 Kếtthúc vụ anh Phùng Chí Kiên nhẻ. Anh Kiên bị bọn Fáp chặt đầulâu, Cứuquốcquân tantành, anh Chu Văn Tấn lánh mẹ sang Choang Khựa. Ông Cụ sai anh Thốngchế lập quânđội mới, 3 tiểuđội toọc chân trần mắt xếch tuổi 18-20. Anh Thốngchế rốtcuộc thànhcông, anh Tấn thì kịpthời zây-máu-ăn-fần bởi lời hứa vộivàng của Ông Cụ. Nhưng anh Kiên Phùng hoàntoàn bị quênlãng. Nếu Zì không kể lại trong loạt cồng này, Zì đoanchắc 50% số văncông ở đây đéo biết anh Kiên là ai, thậmchí chưa baojờ nghe tên anh. Jáokhoa của đảng không nhắc anh một lần nào. Anh thậmchí đéo lừngzanh bằng Nông Zền, Lê Tám, hay Văn Đàn, Đình Jót, Bá Ngọc, Viết Xuân, những huyềnthoại vănchương thuầntúy. Các đồngđội anh, hàng trăm chú toọc bị bổ gươm jữa gáy hoặc buộc thép thả sông, không một ai được ghicông liệtsĩ. Về các anh, chỉ còn lại nhõn hùngca Bắc Sơn của thợ-nhạc Văn Cao. Hanoi có fố Phùng Chí Kiên, nhưng 99% cưzân nơi đó đéo biết Kiên là gã chăn trâu bỏmẹ nào. Zì đôibận nghĩ lẩnthẩn rằng, nhẽ Ông Cụ sợ anh Kiên Phùng bẻmmép vụ mama anh Mạnh, nên quyết xóa sạch anh ý, hay chăng? Jảthiết thôi, nhưng cũng không hẳn không cólý. Mãi 199x, anh Kiên Phùng mới được truytặng Huânchương Chiếncông Hạng Ba, còn kém papa Zì một hạng, kém đạitá Tai Vuông hai hạng. Cả hai anh bộđội vănfòng này đéo có chiếncông cặc nào, thậmchí suốt đời binhnghiệp các anh đéo bóp-cò súng-lục nhát nào. Tên fố Hanoi cho Kiên Phùng cũng xuấthiện sau những năm đó. Tận 200x, cách nay tầm chục năm, bỗngzưng some lãnhtụ nhớ ra Kiên, và chúng quyếtđịnh fong cho anh hàm tướng. Thật hàihước, chúng đéo nói rõ hàm tướng của Kiên Phùng là mấy sao. Năm sao nhẽ nhiều quá, mà bốn sao thì hóa ra công của anh còn thua công anh Thốngchế à? Nhưng điều hàihước hơn, và khôngthể không khiến các cô cười sặc-sằng-sặc, là việc Kiên Phùng đang là người zuynhất trầnjan đeo lon sĩquan caocấp của một quânđội thànhlập sau khi anh chết. Zì sẽ không ngạcnhiên, nếu vài năm nữa lãnhtụ các cô sẽ fong anh Trần Hưng Đạo hàm trungtá, hoặc anh Lý Thường Kiệt hàm đạiúy, của quânđội nhânzân các cô. Các anh ý cũng chết trước khi anh Thốngchế khaisinh quânlực, ychang Kiên Phùng bạcmệnh, đó thôi? SƠ BỘ ĐÁNH GIÁ THÔNG TIN HAI LUỒNG Ba tuần lễ qua, tôi tự cuốn hút vào không khí quốc tang tướng Giáp. Dịp này tôi đọc được nhiều tài liệu dồn dập về cuộc đời binh nghiệp và chính trị của tướng Giáp và nhiều bài bình luận trên báo chí ở cả hai bên “lề”. Báo chí nhà nước thì khỏi bàn nhiều, ngôn từ giọng điệu giống nhau như trứng gà trứng vịt, như đúc khuôn, nói những điều ai cũng biết, biết từ lâu. Mỗi khi trích dẫn báo chí nước ngoài, đài báo nước ta chỉ cắt chọn lấy những lời khen ngợi. Tuy vậy có một số tờ báo nhà nước tranh thủ không khí quốc tang bi thương, bật ra cái ấm ức của mình như Sài Gòn tiếp thị, Dân trí… Báo chí tự do trên mạng thì phong phú hơn hẳn. Những bài viết của nhiều người cùng mối quan tâm đến số phận tướng Giáp và thời cuộc. Những bài viết dài ngắn khác nhau với phong cách đa dạng, bộc lộ được suy nghĩ độc lập tự chủ, tuy có sai có đúng bỏ qua những lời phỉ báng bừa bãi. Nhiều bài viết với suy tư nghiêm túc, tránh cảm tính, lật đi lật lại vấn đề, không nghĩ theo một chiều. Gần đây nhất, tôi đọc được bài viết và biên dịch “Vài suy nghĩ nhân đọc bài Tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp của Tonneson 2 kỳ của tác giả Anh Vũ thông tin về một cuộc gặp gỡ độc đáo của hai vị tướng đối đầu trong chiến tranh Việt Nam 1954-1975 – Võ Nguyên Giáp và Mc Namara của nhà báo Na uy. Bài viết giúp bạn đọc nhìn thấy chân dung Tướng Giáp rõ hơn một chút. Trong cuộc trò chuyện đó, với tướng Giáp thì chiến tranh chưa chấm hết, lòng ông vẫn bừng bừng lửa đốt, ngồi đối diện uống trà với tướng Mc Namara ở Hà Nội mà hùng hồn gay gắt như đối mặt giữa chiến tranh. Cảm ơn thời đại internet tự do dân chủ tự phát dù chỉ mới được “tự do dân chủ một nửa”, bởi báo chí nhà nước tuy không đăng các bài viết trái ý nhưng cũng để mặc người ta tự thông tin và bàn luận. Bây giờ tôi đã bình tĩnh hơn. THƯƠNG TIẾC Nhớ lại câu thơ Xuân Diệu “Yêu với căm hai đợt sóng ào ào Vỗ bên lòng dội mãi tới trăng sao”. Yêu ai, ghét ai – hẳn bạn đọc đều biết rồi, tưởng không cần nói rõ. Có ý kiến cho rằng những giọt lệ tiếc thương tướng Giáp có ít độ mặn hơn nước mắt căm ghét đám đồng chí xấu làm hại ông. Biết bao cảm nghĩ và những lời bàn nghiêm túc trên công luận cả hai “lề” phần lớn đều có điệp từ “thương tiếc”. “Thương tiếc” là một tổ hợp hai cảm xúc khác nhau tuỳ theo thực tế và quan niệm khác nhau, nhưng có nét bản chất chung Thương một người tử tế mà sống phải chịu vất vả, khổ đau, thiệt thòi, oan ức hoặc buồn thương khi người tử biệt sinh ly. Tiếc một người chết trẻ, giá như người ấy còn sống thì còn hữu ích cho đời hơn nữa. Tiếc là một cảm giác bị mất mát như tiếc của, tiếc rẻ. Rút cục thì nhân dân THƯƠNG hay TIẾC, hay là gồm cả TIẾC THƯƠNG trong và sau Lễ quốc tang? Một bạn đọc ghi bút danh “Quảng Nam” phản hồi sau khi đọc bài viết của ông Hạ Đình Nguyên Về Tướng Giáp lịch sử và hôm nay đăng lại trên blog tôi xin trích hai câu “Xin hỏi anh Nguyên Nếu không bị bạc đãi thì cụ Giáp có giúp cho VN thoát khỏi thân phận hiện nay không? Nếu không có viêc thanh trừng “từ trong trứng” những tinh hoa ưu tú của dân tộc thời “trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ” mà chính cụ Giáp là cây đa cây đề khi triệt tiêu đối lập không theo Việt Minh với bao nhiêu oan khốc, mà nếu thống kê được chắc cũng ghê rợn vô cùng! Mạnh Tây Tây giết, mạnh Việt Minh Việt Minh thủ tiêu”. Một câu hỏi thực bất ngờ ít người nghĩ tới suốt gần ba tuần qua. Người hỏi đã biết câu trả lời thoả đáng rồi. Tôi ngớ người ra, trí tuệ tỉnh táo trong dân gian có nhiều lắm. Thực vậy, trả lời câu hỏi trên của bạn đọc QN không khó. Nếu tướng Giáp không bị “đồng chí” đố kỵ, hãm hại, có thể ông được bầu làm Chủ tịch nước hay Tổng bí thư trong Đại hội VI. Và nếu thế, ông có thể làm được gì để cứu vận nước nhà ? Chắc hẳn, ông vẫn “đi theo con đường Bác Hồ đã chọn” như trước sau ông từng nói với thế hệ trẻ, với mọi người như thế Có lẽ tôi không cần phải trích dẫn nguồn tài liệu mà tướng Giáp đã từng nói viết không ít về lý tưởng của mình, vì đã được in sách, đăng báo, đọc trên đài rất nhiều lần. Có thể, với bản lĩnh văn hoá, ông không sa vào “nhóm lợi ích” nào hết, không tham nhũng, nhưng ông sẽ là thiểu số nên không thể khắc phục được “lỗi hệ thống”. Một mình ông dù có thêm cả một số đồng chí tâm huyết nữa chỉ là thuộc cấp của ông cũng không thể ngăn cản tình trạng suy thoái toàn diện như ngày nay. Nhưng thôi, người xưa đã nói “Mãnh hổ nan địch quần hồ”. Ít ra ông cũng có hai cố gắng nhỏ cuối đời Ngăn cản việc bán bauxite Tây Nguyên cho ngoại quốc và Tự chọn nơi an nghỉ cuối cùng cho mình. Và, rồi sao nữa, chỉ thế thôi sao ? Bản chất nước mắt dành cho Tướng Giáp là thương hay tiếc, hay là gồm cả tiéc thương, hẳn không cần phải bàn thêm nữa. Nhà văn Dạ Ngân viết tuỳ bút về tiếng khóc trong quốc tang “chắc là trên hết, người ta khóc cho chính mình, cho sự bế tắc của chính mình”. Nhưng thôi, chúng ta cũng không thể đòi hỏi quá nhiều vào nước mắt. Theo báo Dân trí, từ khi an táng Đại tướng đến nay, trung bình mỗi ngày có khoảng người khắp mọi miền tổ quốc đến thăm viếng Đại tướng, đặc biệt những ngày nghỉ cuối tuần lượng người đến viếng rất đông, có ngày lên đến hơn người thông tin này bác bỏ quan điểm của vài nhà phân tích trước đây rằng người ta đến viếng tướng Giáp ở nhà số 30 vì tò mò muốn xem ngôi biệt thự ra sao. Có điều này là chắc chắn, nhiều bài báo đã thống nhất khẳng định rằng, cuộc ra đi của tướng Giáp là dịp khiến cả dân tộc tỉnh dậy và nhận thức mọi việc nghiêm túc hơn, tỉnh táo hơn. GNLT This entry was posted on Tháng Mười 27, 2013 at 1013 chiều and is filed under Uncategorized. You can follow any responses to this entry through the RSS feed. You can leave a response, or trackback from your own site. Nhắc lại, Nguyễn Bình theo bức thư viết tay vắn tắt có vài hàng của Hồ chí Minh đã rời bỏ Bắc Việt để vào chỉ huy cuộc kháng chiến Miền Nam vào đầu năm 1946. Lúc đó có miền Đông là lan tràn khói lửa. Nguyễn Bình kiểm điểm tình thế, và hiểu ngay rằng thực lực của các bộ đội Cộng sản hay thân Cộng tại Miền Đông nói riêng, chẳng có là bao Huỳnh văn Nghệ, Kiều Đức Thắng, Đào Sơn Tây, Tô Ký, Tám Chùa chỉ có danh có tướng mà không có quân nhất là không có vũ khí. Trái lại, các bộ đội quốc gia, hay nói nôm na theo danh từ dân chúng thời đó là “bộ đội đánh Tây” như Bình Xuyên, Việt Nam Quốc Dân Đảng do Phạm Hữu Đức nguyên Tư Lệnh phó Đệ Tam sư đoàn của Nguyễn Hòa Thiệp, chỉ huy. Đại Việt Quốc Dân Đảng thể hiện bằng bộ đội An Điền sau là Trung Đoàn 25 Bình Xuyên do Bùi Hữu Phiệt chỉ huy, lại quá mạnh mẽ về quân số cũng như về vũ khí. Sở dĩ các bộ đội này hùng mạnh, đầy đủ vũ khí, phần lớn do binh đội Nhựt trao cho, do chiếm đoạt được của Nhựt, của Chà Chóp và sau này của Pháp. Vũ khí của Bình Xuyên đã được Hồ Vĩnh Ký, Lâm Ngọc Đường, khi chỉ huy ngành Công an Nam Kỳ, thời Nhật vừa đảo chánh Pháp, trao cho. Phạm Hữu Đức, tức Tư Đức là nhân viên cao cấp trong Hiến binh Nhựt, nên khi Nhựt đầu hàng Đồng Minh, trao cho Đệ Tam sư đoàn nhiều súng đạn là sự dễ hiểu. Trường hợp của bộ đội An Điền lại vô cùng đặc biệt. Khi Nhựt đảo chánh Pháp ngày 9-3-1945, Trung-ương Đại Việt Quốc Dân Đảng phái một số cán bộ chánh trị và quân sự đi cùng với Huỳnh văn Tiếng, Đặng Ngọc Tốt vào Nam chỉ với mục đích là bành trướng đảng, sau đó đấu tranh chánh trị. Trong “phái đoàn quân chánh Đại Việt” vào Nam thời bấy giờ có – Thiếu tướng Phạm Thiết Hùng, người Việt, đã từng là anh hùng mặt trận Trường Sa Trung Hoa Dân Quốc kháng Nhật anh vợ của tướng Phan Trọng Chinh ngày nay, – Nguyễn văn Hướng bí danh Mười Lễ em bà bác sĩ Nguyễn thị Sương, vợ của ông Hồ Vĩnh Ký nguyên Tổng thư ký Tổng thống phủ và hiện là Chủ nhiệm nhựt báo “Đời Sống Việt Nam”, – Triệu Phong tức Trần Kim Phượng hiện là Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao sau nhiều năm làm Đại sứ, – Triệu Tín tức luật sư Nguyễn tấn Thành, Thực sự, lúc đó Đại Việt Quốc Dân Đảng chỉ nghĩ nhiều tới vấn đề chính trị, nhưng vấn đề chính trị tại Việt Nam lại diễn tiến ngoài sự dự liệu của Đại Việt Việt Minh lên nắm chánh quyền chứ không phải đảng phái quốc gia hay khâm sai Nguyễn văn Sâm khi Nhựt đầu hàng Đồng Minh. Phiên họp tối mật tại biệt thự của bà Hồ Vĩnh Ký, với sự tham dự của – đại diện Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc Cao Đài Tây Ninh, – Lê Kim Tỵ Cao Đài Bến Tre, – Phạm Hữu Đức Việt Nam Quốc Dân Đảng, – Dương văn Giáo, – Hồ văn Ngà đại diện Khâm Sai Nguyễn văn Sâm để lật đổ Trần văn Giàu, có thể coi là Chủ tịch Ủy ban Hành Chánh Nam Bộ vì Phạm văn Bạch – Chủ tịch được chỉ định vắng mặt kiêm Ủy viên quân sự, không đi đến kết quả mong muốn vì sự lưỡng lự của nhân sĩ Cách mạng Dương văn Giáo. Ngày 28 tháng 9 năm I945, Pháp công khai tấn công “quân đội” Miền Nam. Đại Việt Quốc Dân Đảng buộc lòng phải chuyển mình qua thế quân sự. Và bộ đội An Điền, tên tại một Tổng ở quận Thủ Đức, nơi các cán bộ Đại Việt “chiêu quân”, được thành lập dưới quyền chỉ huy của một người dân địa phương tên Trần văn Quới, tức Bảy Quới, sinh viên luật khoa cũng vừa từ Bắc trở về cố hương. Chiến trận miền Đông trong thời kỳ khói lửa ngất trời thì Bảy Quới được lệnh ra Bắc. Quyền chỉ huy bộ đội An Điền trao lại cho Bùi Hữu Phiệt, một nhà cách mạng quốc gia vừa từ Côn đảo trở về, đồng chí với Đinh Khắc Thiệt, Đinh Khắc Quyết thủ lãnh của Thanh Niên Ái Quốc Đoàn với sự tham đự của cụ Hồ Nhựt Tân, Tú Quyền và bà Song Thu. Bùi Hữu Phiệt chỉ gia nhập Đại Việt khi là Tư Lệnh bộ đội An Điền. Sự lớn mạnh của bộ đội An Điền là cả một giai thoại. Lẽ cố nhiên là khi đồn trú tại An Điền, rồi sau Tăng Nhơn Phú Thủ Đức bộ đội đã có khá nhiều vũ khí “ăn chùm” những bộ đội Cộng Sản như Đào Sơn Tây, Tô Ký Thủ Dầu Một Huỳnh Tấn Chùa Một sự tình cờ đặc biệt khiến cấp lãnh đạo An Điền ngạc nhiên Một chiều Tám Sanh, Trưởng ban tình báo và liên lạc của bộ đội đưa về bộ Tổng Tham Mưu một người Nhựt cao lớn, nhưng nét mặt còn đầy vẻ thư sinh, mang theo cả năm khẩu vừa súng trường vừa súng lục, nói muốn gia nhập kháng chiến Việt Nam. Thời đó, người ta có thể giết chết cả mười người để lấy một khẩu súng thì một người tới với năm khẩu súng đáng được coi như thượng khách. Tiệc liên hoan đã qua, trong văn phòng bộ Tổng Tham Mưu chỉ còn vài người, “khách” mới nhỏ nhẹ thưa bằng tiếng Việt khá rành rẽ – Tôi có thể nói với ông chỉ huy trưởng một việc riêng. Bùi Hữu Phiệt đáp – Được. Nơi đây chỉ còn những người có đầy đủ trách nhiệm. “Khách” móc trong túi ra một bức thư dài kiểu Á Đông, nhưng phía dưới có ấn vuông lớn, dấu son và chữ ký nghiêm trang, không khác gì một sắc phong của nhà vua, hai tay cầm kính cẩn dâng lên. Bùi Hữu Phiệt, giỏi chữ Nho, giỏi chữ Nhật, mới liếc qua bức thư, đã giật mình đây là bức thư của Đại Tướng Sato, Tổng Tư Lệnh quân đội Hoàng gia Nhựt tại Đông Nam Á cho phép Trung úy Nam Tước Watanabe Hitomi được “đào ngũ” tham dự kháng chiến Việt Nam đánh đuổi đế quốc Pháp vì đó cũng là chủ trương “Đại Đông Á” của Nhựt Hoàng. Bức thư còn nói rõ, nếu Trung úy Nam Tước Watanabe tham dự bộ đội An Điền của Đại Việt Quốc Dân Đảng là điều Đại Tướng rất mong muốn. Công việc đầu tiên của Nam Tước Watanabé Hitomi là đi chiếm hầm vũ khí của Nhựt chôn dấu ở vườn cao su Bình Thung và Bình Thắng cũng thuộc quận Thủ Đức. Trung úy NamTước Watanabé hỏi Bùi Hữu Phiệt – Ở đây “Tư Lệnh” có bao nhiêu lính và bao nhiêu súng ? Bộ bội An-Điền lúc đó còn được mệnh danh là “bộ đội Bắc bộ” vì hầu hết các cấp chỉ huy và chiến sĩ đều là người Bắc, chiến sĩ phu đồn điền cao su Pháp gốc người Bắc. Lý do lúc đó tại Saigon, Phong trào chống người Bắc dâng cao nếu người trong bộ đội hầu hết là người Bắc thì tránh khỏi cảnh đầu thú về hàng và buộc họ sống chết với kháng chiến. Bùi Hữu Phiệt không chút ngần ngại, nói rõ về nội bộ. Trung úy Nam Tước Watanabé Hitomi, về sau này mang tên bình dân”Anh Bê”, đáp ngay – Tôi sẽ đưa một số huấn luyện viên quân sự tới đây và nhất là mang nhiều súng về. Anh Bê đã giữ lời hứa. Vài ngày sau, qua sự chỉ dẫn của anh Bê, Tám Sanh đưa về bộ đội nhiều “người bạn Nhựt” có người chuyên môn về tình báo vì đã hoạt động trong Hiến binh, có người đặc trách về huấn luyện quân sự đánh trận địa chiến cũng như du kích chiến. Một công tác đặc biệt nhất của anh Bê là đã dám cùng một người bạn trẻ trong Bộ Tham Mưu đi từ Tăng Nhơn Phú qua rừng cao su Bình Thắng, hậu cần quan trọng nhứt của quân đội Nhựt tại miền Đông để xin súng. Anh Bê mặc bộ đồ bà ba đen của kháng chiến quân, thủ khẩu súng lục nơi bụng, nhưng lại đeo thanh trường kiếm, thanh kiếm gia truyền được Nhựt Hoàng ban tặng của giòng họ quý phái Watanabé. Trong binh đội Nhựt, từ Trung sĩ trở lên đã có quyền đeo gươm nhưng giá trị của thanh gươm đó lại ghi thực rõ nơi chuôi qua mầu sắc của tua kết, qua sự chạm trổ, và nhất là qua những viên ngọc bích gắn nơi đó. Chỉ là một Trung sĩ thôi, nhưng nếu đeo thanh gươm do Nhựt Hoàng đã ban tặng, thì khi gặp thượng cấp kể luôn cả vị Tướng, thì chính vị Tướng này chào trước, chào thanh gươm như trong binh đội Pháp, các cấp bậc đều phải chào “chiến sĩ bội tinh” Médaille militaire. Anh Bê tới cửa trại Bình Thắng, người lính gác nhận ngay giá trị của thanh gươm, nhưng vẫn nghi ngờ rằng chủ nhân của nó là người Việt nên hô nhiều câu tiếng Nhựt. Anh Bê xưng danh tánh và cấp bực trong quân đội Hoàng gia. Tức khắc viên Tư Lệnh doanh trại được thông báo và một cuộc đón tiếp cho đúng nghi lễ, tuy đơn sơ, dành cho một vị Nam Tước được diễn ra. Anh Bê nói rõ mục đích tôi xin súng cho kháng chiến quân. Viên Tư Lệnh doanh trại với cấp bậc Đại tá, đưa hai tay liên tiếp vò cái đầu trọc, lẩm bẩm”khó quá, khó quá”. – Tại sao khó ? – Cách đây một tuần nội vụ giải quyết quá dễ dàng. Tôi đưa cả xe lớn chở đầy súng tìm “một hai” Thanh Niên Tiền Phong để cho nhưng sau đó, được thượng lệnh, đã khai số vũ khí còn lại với Đồng Minh rồi. Nếu ngày họ giải giới… Anh Bê hiểu ngay vấn đề thực khó khăn vì đã biết quá rõ quân kỹ của binh đội, sự thất vọng hiện trên nét mặt. Vị Đại tá Tư Lệnh doanh trại như thông cảm với Nam Tước Watanabé anh Bê nói ngay – Tất cả súng đạn hiện nay đều tập trung tại kho Bình Thung, cùng trong rừng cao su, cách đây 5 cây số. Nam Tước biết nơi đó không ? – Biết. – Hôm nào Nam Tước muốn lấy hết kho súng đó ? Anh Bê mừng rỡ – Đại tá cho phép… – Không cho phép gì cả. Ngày nào Nam Tước muốn chiếm kho súng đạn đó, tôi sẽ hạ lệnh chỉ để hai người lính lại thôi. Nam Tước đưa người tới giết lính gác để đoạt súng, tôi nhắc lại giết họ để có bằng cớ nói với Đồng Minh. Anh Bê quay lại hỏi người bạn Việt đồng hành. Thấy nét lưỡng lự trên mặt người thanh niên, Đại tá Tư Lệnh doanh trại nói ngay – Tôi hiểu, ông không nỡ quyết định giết hai người lính gác nhưng ông hiểu rằng với số súng đạn đó trong tay, kháng chiến quân sẽ giúp được bao nhiêu ngàn người dân Việt khỏi bị Pháp giết? Nếu chỉ giúp được hai ngàn người khỏi bị chết đói với hai người lính Nhựt, cũng là điều quá vinh dự cho chúng tôi. Chính vì những lý luận đó mà An Điền Trung Đoàn 25 Bình Xuyên sau này nhiều súng hơn lính. Và cũng chính vì vậy mà Khu trưởng Nguyễn Bình năng lui tới với anh em trong Liên Quân Quốc Gia Kháng Chiến nhất là tìm đủ mọi cách làm thân với các thanh niên trong bộ tham mưu của An Điền. Những chàng trai trẻ này biết rõ về dĩ vãng của Nguyễn Bình, lại là cán bộ của Đại Việt Quốc Dân Đảng mà lý thuyết “dân tộc sinh tồn” trái ngược hẳn với chủ nghĩa Mác Lê, nên không ưa Khu trưởng khu 7 nếu không muốn nói rằng là thù nghịch. Trước thái độ “hiếu khách vì là chủ nhà” của Mười Trí, trước những ngăn cản của “các anh lớn” họ không dám công khai tranh luận với Nguyễn Bình. Tuy nhiên, họ cũng bàn luận riêng với nhau, xếp đặt một kế hoạch đặt tất cả “các anh lớn” trước một việc đã rồi là mưu đồ lén lút hạ sát Khu trưởng. Qua quá nhiều các cuộc gặp gỡ và thảo luận với anh em Liên Quân trong bầu không khí được coi là cởi mở và nể nang, Nguyễn Bình tin tưởng tới mức độ là báo trước các cuộc viếng thăm để anh em Liên Quân sửa soạn đón tiếp. Nguyễn văn Thắng cho hay hai hôm nữa, Khu trưởng Nguyễn Bình sẽ từ Tân Uyên tới thăm anh em Liên Quân tại ấp số 8, Phú Lâm. Liên Quân hoan hỷ đón nhận tin này nhưng “mỗi giới” hoan hỉ một khác. “Giới già” như Mười Trí, Tư Đức, Tám Phiệt, Giáo Thảo nghĩ ngay tới việc hân hạnh được Khu trưởng luôn luôn viếng thăm; sẽ có những tin tức mới, sẽ có những cuộc thảo luận sôi nổi mới. “Giới trẻ” hoan hỉ vì biết được trước ngày giờ mà Khu trưởng Nguyễn Bình sẽ vô tình dấn thân vào trước các họng súng của họ. Đúng ngày Nguyễn văn Thắng đã loan báo, bộ Tham Mưu của Trung Đoàn 25 đột nhiên vắng vẻ vì khi mặt trời vừa lặn, nhiều anh em, bỏ cả bữa cơm tối, rủ nhau đi… uống cà phê. Sự việc này cũng thông thường. Sau những giờ làm việc, đêm là ngày, nếu không phải phục kích nơi đâu hay tấn công địa điểm nào, anh em trong bộ Tham Mưu có quyền đi… uống cà phê, đồng nghĩa với giao thiệp ngoài đời hay nôm na là đi “o mèo” giải quyết sinh lý. Chính Mười Trí đã nhiều lần, trên chén rượu, tuyên bố – Mấy em còn trẻ, sao “hèn” thế ? Hồi “qua” bằng tuổi các em, có đêm nào “qua” ở nhà mà ngủ yên được ? “Qua” không chịu các cuộc “lộn xộn” trong bộ đội thôi, còn ra ngoài thì thả dàn. Mười Trí đôi khi còn khuyến khích bằng cách hạ giọng thì thầm – Tụi bay, nếu có “món nào” ngon lành cho “qua”… biết miễn là đừng báo cáo cùng mẹ con Liên. Má con Liên là vợ chánh thức của Mười Trí. Bởi vậy sự vắng mặt của một số anh em “đi uống cà phê” không làm cho “các anh lớn” trên chiếu rượu chiều hôm đó thắc mắc. Trăng xanh mát đã vượt qua ngọn các vuông tre. Tham Mưu trưởng của Trung Đoàn 25 chưa tới 23 tuổi, nhưng đã vì thời thế, theo học qua các khóa quân sự của Đại Việt và của Nhựt, đưa mắt nhìn địa thế rồi vẫy bốn anh em lại gần. Họ ngồi trên mặt đất. Viên Tham Mưu trưởng dùng cây khô vẽ lên các vị trí phục kích. Viên Tham Mưu trưởng giải thích – Theo lời của Nguyễn văn Thắng loan báo, thì Nguyễn Bình sẽ tới địa điểm này trước hay sau một chút nửa đêm. Không ai đạp gai, lội ruộng để tới ấp số 8. Nguyễn Bình và Thắng nay thêm vài tên cận vệ nữa sẽ đi trên con đường mòn trước mặt chúng ta. Anh em đã nhận thấy chỗ phục kích của mình chưa ? Từng lãnh vai trò quan trọng trong bộ Tham Mưu nhưng không phải chỉ chuyên lo “cạo giấy”, và tham dự với tính cách chỉ huy nhiều trận đánh, cán bộ theo viên Tham Mưu trưởng đưa mắt nhìn quanh đã biết ngay vị trí thuận tiện trong cuộc phục kích như người ta dành chỗ tốt để… lãnh phát chẩn. Sự sốt sắng này khiến anh Tham Mưu trưởng hài lòng – Các em núp cho kỹ sau gò mối. Cần nhớ rõ điều này là trăng sáng sẽ “hất” bóng các em về phía sau dễ làm cho một kẻ tinh mắt và kinh nghiệm chiến trường nhận thấy ngay. Quan sát một lần nữa, viên Tham Mưu trưởng tiếp – Phục kích như vậy, đúng vị trí rồi. Các em chỉ nổ súng khi “họ” đã lọt vào đây viên Tham Mưu trưởng đứng vào vị trí lựa chọn rồi mới nổ súng theo kiểu đan lưới. Với những khẩu “gà cồ”trung liên Thompson, theo tiếng lóng của kháng chiến vì súng nổ nghe “cộc, cộc, cộc” như tiếng gà cồ dụ mái,”họ” không thể thoát khỏi lằn đạn của chúng ta. Trời thực cao, xanh và trăng thực sáng làm cho cảnh vật đều mang vẻ quá dịu hiền, trái hẳn với màn lưới vừa được giăng ra để đi tới máu lửa. Bầu không khí hoàn toàn yên tĩnh, tiếng gió rạt rào lay khẽ các cành cây cũng vang dội như tiếng sóng đập vào bãi biển. Theo với ánh trăng, bốn bóng đen to lớn, dài như bất tận, đã hằn in trên nền cát vàng óng ánh của đường mòn dẫn tới ấp số 8. Đã quá quen thuộc, đội phục kích nhận rõ ngay rằng hai bóng đen đi đầu là Nguyễn Bình và bí thư Nguyễn văn Thắng, những bóng đi sau không “chối cãi” được vai trò vệ sĩ của mình qua khẩu súng trường cao lêu khêu đeo trên vai. Mỗi bước chân tiến của “họ” đập mạnh trên đường mòn hòa nhịp với những kẻ phục kích. Những “con mồi” một lúc một tới gần, những bàn tay của những kẻ phục kích mỗi lúc một thêm siết chặt báng súng. Nhưng đột nhiên, có tiếng nói lào xào, có tiếng chân từ phía sau những kẻ phục kích vọng tới. Như vây phải chăng đã có “nội thù” báo cho Nguyễn Bình biết trước cuộc phục kích này ? Như vậy, phải chăng những kẻ phục kích lại lọt vào ổ phục kích của Nguyễn Bình? Chỉ huy trưởng cuộc hạ sát Nguyễn Bình trên đường vào ấp số 8 vô cùng hồi hộp trước thế “lưỡng đầu thọ địch”. Bỗng tiếng nói quen thuộc vang lên – Chắc chắn chỉ một, hai phút nữa Khu trưởng sẽ tới đây. Có tiếng đáp lại – Dạ Khu trưởng đã tới nơi đầu đường rồi. Những bóng đen đứng khựng lại như ngạc nhiên trước sự xuất hiện bất thần của một tiểu đội võ trang. Mười Trí cười lớn, tiến mau lại – Chúng tôi đi rước Khu trưởng. Sao Khu trưởng tới trễ thế, đi đường gặp khó khăn gì không? Nguyễn Bình cũng tiến mau lại, nắm lấy tay Mười Trí – Chúng tôi đi đường bình yên. Sao lần này lại phiền anh Mười… – Có gì đâu mà Khu trưởng để tâm. Tôi vừa nhận được tin liên lạc cho biết quãng đường này rất có thể không yên nên phải phòng xa. Mười Trí lại cười – Phòng xa vẫn hơn. Rủi có một sự gì đáng tiếc xảy ra ngay trên mảnh đất chúng tôi kiểm soát thì thực là mang tiếng… Nguyễn Bình đi theo Mười Trí về ấp số 8, cười nói luôn miệng. Đoàn người đi qua “tử địa” mà đám quân phục kích không dám nổ súng. Chờ tới khuya, viên Tham Mưu trưởng mới hạ lệnh cho anh em rút lui. Câu hỏi “tại sao Mười Trí đích thân đi đón Nguyễn Bình” quay cuồng trong đầu ? Lần này Nguyễn Bình chỉ ở chơi có một ngày rồi lại hấp tấp trở về khu bộ, nhưng chắc chắn trong 24 giờ qua đã nói nhiều chuyện quan trọng với Mười Trí nên Mười Trí dầu bản chất mộc mạc, ưa vui đùa cũng không dấu được sự lo âu loé trên khoé mắt. Nguyễn Bình đã ra đi rồi, Mười Trí mới cho gọi vịTham Mưu trưởng Trung Đoàn 25 tới ngồi riêng trong phòng đàm luận. Mười Trí nói ngay – Tại sao em lại hành động như vậy ? Vị Tham Mưu trưởng… ngây thơ – Thưa anh Mười…. hành động gì ạ? Mười Trí nghiêm giọng – Nếu “qua” không phát giác kịp thì bây giờ biết bao nhiêu chuyện đã xẩy ra. Như không muốn cho đàn em đóng vai trò “ngớ ngẩn”, Mười Trí tiếp – Tối hôm đó, “qua” có chuyện phải cần tới mấy em, cho mời thì em cùng bốn người nữa, tuyền là “thứ dữ” trong bộ Tham Mưu đều đi khỏi. Tối không có công tác định trước, các em rủ nhau “đi uống cà phê” tiếng lóng trong kháng chiến đồng nghĩa với đi o mèo cũng là sự thông thường. Công việc “qua” muốn nhờ các em quá quan trọng nên phái liên lạc đi kiếm các em ở những nơi “thông thường” nhưng mọi người đều quả quyết từ chập tối không thấy một em nào lảng vảng tới đó. “Qua” chợt nhớ rằng đêm đó Khu trưởng tới thăm như đã báo trước. Điều này các em cũng biết. Các em lại không ưa gì Nguyễn Bình vì Nguyễn Bình, dầu là khách đã công khai chèn ép các em ngay nơi đây. Nghi ngờ thoáng trong đầu, qua cho kiểm soát lại vũ khí thì em Chỉ huy trưởng Trung đội Thompson phòng thủ bộ Tham Mưu cho biết, các em, ngoài súng lục vẫn có, mỗi người còn lấy ở Trung đội này một khẩu “Gà Cồ” đem theo nữa. Như vậy, các em đi đâu, nếu không phải là … ra trận ? Vị Tham Mưu trưởng nín lặng, công nhận tài nhận xét rất đúng và hành động cấp thời hữu hiệu của Mười Trí. Y hơi ngạc nhiên thấy giọng trách móc của Mười Trí quá hời hợt, khác hẳn với ngày thường nặng nề và đôi khi tục tằn. Dường như Mười Trí hối tiếc một việc gì ? Vị Tham Mưu trưởng dọ dẫm – Nếu Nguyễn Bình bị bắn hạ đêm đó thì đã giải quyết được cho anh Mười nhiều sự khó khăn. Mười Trí thở dài không đáp. Vị Tham Mưu trưởng hỏi tiếp – Nguyễn Bình đã đề nghị với anh Mười những việc gì ? Một lần nữa Mười Trí nhẹ thở dài nhưng cũng đáp – Nguyễn Bình không đề nghị gì cả mà chỉ thông báo cho “qua” biết rằng thằng Bảy Bảy Viễn đã thoả thuận với y, đưa thằng Tư Tư Tỵ từ Bình Xuyên về đây làm Tư Lệnh phó Trung Đoàn 25. Nguyễn Bình nhờ “qua” “giải thích” cho anh Tám Phiệt rõ để anh Tám nhận lời. – Nghĩa là Nguyễn Bình muốn đưa anh Tư tới kiểm soát, kiềm chế anh Phiệt? Mười Trí gật đầu – Nguyễn Bình giải thích rằng thằng Tư sau trận đánh vừa qua ở Bến Tre, lực lượng tiêu hao quá nhiều. Không còn đủ sức tung hoành nữa, cần dựa vào bộ đội hùng hậu nào đó để…. hồi sinh, bổ sung lực lượng nhưng “qua” hiểu, thâm ý của Nguyễn Bình là đưa thằng Tư kiềm chế anh Phiệt, hay hơn nữa tước đoạt quyền của anh Phiệt. – Anh Mười tính sao ? Mười Trí trầm ngâm vài giây – Thực ra, đối với thằng Tư không đáng ngại. Vài hôm nữa, nó sẽ tới đây với một tiểu đội, với chứng minh thư của Khu trưởng “phong” làm Trung Đoàn phó Trung Đoàn 25. Với lực lượng đó, nó khó mà làm gì được anh Phiệt. Hơn nữa dầu sao nó cũng là một trong mười con Rồng Xanh của Bình Xuyên, chắc không hành động xấu xa. Mà dầu nó có tâm địa nào đi chăng nữa, thì còn “qua” đây. “Qua” nhất định không để cho nó toại ý. Em về thưa rõ với anh Phiệt như vậy. Tuy nhiên… – Thưa anh Mười còn điều gì nữa ? – Tuy nhiên, qua nghĩ rằng đây là cuộc thử thách, dọ dẫm đầu tiên của Nguyễn Bình đối với Trung Đoàn 25, được đằng chân, chắc chắn Nguyễn Bình sẽ lấn đằng đầu, gây thêm nhiều khó khăn nữa cho anh Phiệt. Cần phải đề phòng kỹ những gì sẽ xẩy ra. Đúng như lời Mười Trí tiên đoán, Tư Tỵ danh chánh ngôn thuận tới lãnh chức Trung Đoàn phó Trung Đoàn 25 và được từ Mười Trí, Bùi Hữu Phiệt cùng các anh em khác vui vẻ đón tiếp. Tư Tỵ về với Trung Đoàn 25 có tánh cách “tỵ nạn” hơn là tìm cách đoạt quyền hành. Cả nửa tháng trôi qua, Tư Tỵ không đi tới các trại đồn binh để rõ thực lực Trung Đoàn ra sao, nhưng không phải vì vậy mà làm cho anh em Trung Đoàn yên lòng. Trong thời gian này, Nguyễn Bình có tới thăm Trung Đoàn 25 một lần nữa. Nguyễn Bình hài lòng vì mọi việc đều êm đẹp như ý mình đã xếp đặt. Cũng trong thời gian đó Dương văn Hà tức Nam Hà, Tư Lệnh Bình Xuyên sau khi người anh ruột là Dương văn Dương tức Ba Dương bị tử nạn tại Bến Tre, cùng Lê văn Viễn tức Bảy Viễn Khu phó Khu 7 kiêm Tư Lệnh phó Bình Xuyên tới chúc mừng Tư Tỵ. Năm Hà cũng bị Nguyễn Bình đặt vào trong tình thế khó khăn. Với danh nghĩa là Tư Lệnh Bình Xuyên nhưng quyền hành tại Nam bộ lại thua Tư Lệnh phó Bảy Viễn vì Bảy Viễn là Khu phó khu 7. Như vậy, trên danh nghĩa chính Bảy Viễn chỉ huy. Năm Hà quá hiền lành, thực quyền nơi Bình Xuyên đều nằm trong tay Bảy Viễn. Bảy Viễn chịu ảnh hưởng Nguyễn Bình, đi cặp kè với Nguyễn Bình, Bình Xuyên chắc chắn sẽ có ngày tan vỡ, lâm nguy. Bởi vậy, lần này, cuộc mưu sát Nguyễn Bình, vẫn do anh em trẻ tuổi trong bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25 chủ trương, gần như mặc nhiên được Mười Trí tán thành. Cuộc phục kích lần này được tổ chức kỹ lưỡng …nhưng trên con đường mòn từ Long An về Phú Lâm… Trời mưa rả rích từ chập tối. Bầu trời như quá thấp, có thể đưa khẩu súng lên “quơ” cũng đụng mây đen bay là tà trên khoảng đồng trống. Sấm nổ rền càng làm cho bầu không khí của cuộc phục kích thêm thuận tiện. Người chỉ huy đảo mắt nhìn quanh, trước khi chỉ chỗ cho anh em phục kích, hạ lệnh – Phải bắn chết hết những người đi cùng Nguyễn Bình tới đây. Hừ, quanh chúng ta có tới bốn cái cái giếng cạn, đủ làm “mồ yên mả đẹp” cho nhiều người. Khi “họ” đã nằm xuống, giếng cạn sẽ “đón” họ ; vài tảng đá, vài mô đất đắp theo, như vậy đã kín “đẹp” có thể vài năm nữa hay vài thế kỷ nữa cũng không ai phát giác ra họ. Trời càng về khuya, mưa càng nặng hạt. Đoàn người phục kích vẫn không sờn lòng, vẫn không cả nhúc nhích mặc cho gió tạt mưa vào mặt lạnh ngắt và đau buốt. Họ chỉ chú ý tới việc giữ sao cho súng đạn được khô ráo. Một tia chớp loé lên. Họ giật bắn mình vì cách họ không còn xa, bốn bóng đen, đội nón lá đương xăm xăm rảo bước. Lúc này họ lắng tai nghe. Thính giác, đối với họ, cũng có thể coi như “cái thước” đo đúng khoảng cách giữa tầm súng của họ với những người đương đi. Một tiếng hô át cả mưa gió – Bắn Và những tràng trung liên nổ liên tiếp át cả tiếng sấm. Có tiếng hét trong đau đớn, tuyệt vọng – Tại sao… tôi… Giọng hét quá xa lạ giữa lằn chớp nhoáng quá dài. – Lầm rồi, không phải… – Súng hướng về phía trước. Đèn bấm chiếu… Bốn người mặc bà ba đen quằn quại sình lầy. Những tiếng rên yếu dần, những làn hơi thở mỗi lúc một gấp rút chứng tỏ họ sắp trút linh hồn. Những chiếc nón lá đã văng ra, lật ngửa, đón mưa khuya đương đổ xuống gõ thành nhịp trầm buồn. Ánh đèn bấm chiếu trên mặt những kẻ hấp hối. – Không có Nguyễn Bình… – Không có cả Nguyễn văn Thắng… – Họ là ai? – Lục xét trong người họ coi. Họ là ai ? Chứng minh thư trong người họ và một bức thư trong túi một người cho biết họ chỉ là nhân viên liên lạc khu bộ và địa phương. Địa phương dẫn đường cho hai liên lạc khu bộ, mang bức thư của Nguyễn Bình tới Mười Trí xin lỗi đã thất hứa vì công việc bắt buộc phải ở lại Long An trong hai ngày nữa nên không thể tới thăm đúng hẹn. Ngày mai, Nguyễn văn Thắng sẽ tới giải thích và xin lỗi. Giọng nói thất vọng nổi lên – Bây giờ tính sao anh ? Người chỉ huy cuộc phục kích lưỡng lự. Hai vấn đề cần được giải quyết gấp trả lại giấy tờ cho những xác chết để nằm đó, nội trong ngày mai sẽ có người phát giác. Dư luận sẽ cho rằng họ bị quân Pháp hay “pạc ti dăng” người Việt đi lính cho Pháp tức thân binh phục kích bắn chết. Nhưng điều này hơi khó tin vì thông thường Pháp và “pạc ti dăng” không bao giờ, hay chỉ trong trường hợp đặc biệt mới hành quân ban đêm. Nếu bỏ họ xuống giếng lấp đá, đất lên thì cũng chỉ nội trong ngày mai tin những liên lạc khu bộ và địa phương không tới ấp số 8 cũng được Nguyễn văn Thắng biết và loan truyền đi khắp nơi. Công an Việt Minh bắt buộc phải mở cuộc điều tra và tìm ra cái xác chết nằm dưới đáy giếng cũng chẳng khó khăn gi. Giải pháp thứ ba bỏ “họ” xuống giếng rồi về cho Mười Trí hay rằng đã nhận được thư của Nguyễn Bình, các liên lạc viên trở về khu bộ địa phương. Cũng không ổn vì trong thư Nguyễn Bình còn nói rõ “phiền anh Mười “nuôi cơm” các em liên lạc hai ngày vì tôi còn cần gấp tới họ”. Điều này chắc chắn Nguyễn Bình hay Nguyễn văn Thắng đã nói cho các liên lạc viên rõ thì bất luận lý do gì họ cũng không dám rời Phú Lâm trước khi Nguyễn Bình tới. Chỉ còn một phương pháp “kéo dài thời gian”. Người chỉ huy cuộc phục kích hạ lệnh – Bỏ tất cả xuống giếng cạn, lấp đất lên. Gần sáng hôm đó, đoàn người phục kích mới trở về bộ đội. Họ lăn ra ngủ và cho tới khi Nguyễn văn Thắng tới thăm họ cững không báo cáo nội vụ tới Mười Trí. Tin liên lạc không đưa thư của Nguyễn Bính tới Mười Trí nổ như tiếng sét giữa bầu trời quang đãng. Ai cũng hiểu rằng sự việc này bao trùm một bí mật vô cùng quan trọng vì không bao giờ các liên lạc viên, nhất là liên lạc khu bộ, những người được lựa chọn kỹ lưỡng đóng vai trò phối hợp hành động của Nam Bộ lại không làm tròn nhiệm vụ, trừ trường hợp bị bắt hay giết ở dọc đường. Nguyễn văn Thắng, sau ít lời xin lỗi thông thường, tức khắc xin từ biệt Mười Trí… Tin khu trưởng khu 7 Nguyễn Bình bị ám sát hụt đương lan ra mau lẹ và mãnh liệt như ngọn lửa đã châm trên ngòi của các thùng thuốc súng. Nguyễn Bình, sau những vụ đụng độ với Sư đoàn Sao Trắng tại Đông Hưng và Móng Cáy Bắc Việt sau sự bắt buộc phải thay đổi chánh sách đi tới liên hiệp với các đảng phái quốc gia, của chánh phủ Hồ chí Minh, đã phải đóng vai trò “vô danh tiểu tốt” trong phái đoàn Bắc bộ, do Lê Duẫn chỉ huy để vào Nam. Tuy nhiên khi tới mảnh đất của Bến Nghé rồi, thì tên “vô danh tiểu tốt Nguyễn Bình” thoát xác, quyền hạn còn nhiều hơn cả Lê Duẩn. Sở dĩ có sự “lột xác” bất ngờ này là vì Hồ chí Minh muốn tránh cho Nguyễn Bình tất cả những sự bất trắc có thể xảy ra ở dọc đường do hậu quả của cuộc đụng chạm với Sư đoàn quốc gia Sao Trắng. Thời bấy giờ tuy trên danh nghĩa là Việt Minh nắm chánh quyền “toàn cõi Việt Nam độc lập” nhưng trên thực tế thì trái hẳn lại bất luận Quốc gia hay Cộng sản có vũ khí trong tay vẫn hùng cứ được một phương. Ông Hồ chí Minh đã biết rõ hơn ai hết về tình hình tại Nam Bộ. Trần văn Giàu, Ủy viên quân sự Nam bộ, ra Bắc ngay ngày đầu Miền Nam khói lửa, diễn thuyết nhiều về “Nam bộ oai dũng kháng chiến” nhưng những lời nói không che khuất được hết sự thực quá phức tạp tại Miền Nam. Trước nhà hát Tây Hà Nội, Trần văn Giàu đương diễn thuyết và tự coi mình như một “anh hùng kháng chiến Miền Nam” thì một trái lựu đạn quẵng lên dài. Kế đó Tư Thiên tức Maurice Thiên, một trong 10 con “Rồng Xanh” của Bình Xuyên và một vệ sĩ nhảy lên diễn đàn. Tư Thiên điểm mặt Trần văn Giàu – Anh kháng chiến ngày nào ở Nam bộ ? Anh bắn Tây phát nào ở Nam bộ, hãy nói rõ tôi nghe ? Thời đó, Bình Xuyên kháng chiến được Hà Nội thổi phồng và truyền tụng trong dân chúng. Tư Thiên lại là trưởng phái đoàn của Bình Xuyên kháng chiến từ Nam bộ ra Bắc nên tiếng nói của Tư Thiên rất giá trị Trần văn Giàu chịu thua Tư Thiên trước quần chúng. Chánh quyền Hà Nội dư biết rằng nói tới Nam Bộ kháng chiến chỉ để kích thích tinh thần người dân và thực tình nơi đây ra sao đều biết rõ. Bởi vậy Nguyễn Bình “thoát xác” khi tới miền Nam chỉ qua bức thư ngắn ngủi của ông Hồ chí Minh – “Chú Bình, Nam Bộ đương là nơi để anh hùng tạo thời thế, tôi giao Nam bộ cho chú”. —>Xem tiếp Pages 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Khu tưởng niệm Anh hùng Dân tộc Nguyễn Huệ AI GIẾT VUA QUANG TRUNG * Trang Wiki viết Cho đến nay, đã có nhiều giả thuyết về cái chết của vua Quang Trung được đưa ra nhưng chưa giả thuyết nào có được chứng cứ xác thực, đủ sức thuyết phục. Theo Hoàng Lê nhất thống chí, khi Quang Trung giả sang Yên Kinh gặp Càn Long, được Càn Long tặng cho chiếc áo, có thêu 7 chữ Xa tâm chiết trục, đa điền thử 車心折軸多田鼠 Nghĩa là Bụng xe gãy trục, nhiều chuột đồng Theo phép chiết tự, chữ "xa" 車 và chữ "tâm" 心 ghép lại thành chữ "Huệ" 惠 là tên của Nguyễn Huệ; "chuột" nghĩa là năm tý Nhâm tý 1792. Ý của dòng chữ trên áo là Nguyễn Huệ sẽ chết vào năm Tý. Giả thiết này ý nói rằng Nguyễn Huệ chết do áo bị yểm bùa. Bình Nếu chuyện này có thật. Có thể các cao thủ TỬ VI nhà Thanh hồi ấy. Đoán được năm mất của Vua Quang Trung. Chắc chắn Vua Quang Trung vốn không tin cậy nhà Thanh, đã đưa người cải trang nhà Vua qua bên ấy, cũng không dại gì mặc chiếc áo có có vận xui “Huệ bị gảy trục”, tương đối dễ phát hiện, chỉ có ba chữ sau khó hiểu, chỉ khi nào sự cố sẩy ra mới giải thích được Sách Ngụy Tây liệt truyện, một tài liệu chính sử của Sử quán triều Nguyễn ghi giải thích cái chết của vua Quang Trung như sau “Một hôm, về chiều, Quang Trung đang ngồi bỗng xây xẩm, tối tăm, thấy một ông già đầu bạc từ trên trời xuống, mặc áo trắng, cầm gậy sắt, mắng rằng “Ông cha người sống ở đất của Chúa, đời đời làm dân Chúa Nguyễn, sao phạm đến lăng tẩm...". Rồi lấy gậy đánh vào trán Quang Trung, mê man ngã xuống, bất tỉnh nhân sự lâu lắm... Từ đó, bệnh chuyển nặng..." Sách Tây Sơn thực lục cũng có ghi "Huệ mắc bệnh nặng, chữa không khỏi...". Và sau khi Quang Trung mất, vào tháng một năm Càn Long thứ 58 1793, Quách Thế Huân cũng báo cáo với Càn Long "Quang Trung đã chết vì bệnh". Cũng một giả thuyết được truyền lại nhiều nhất là một buổi chiều thu năm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi là chứng "huyễn vận", còn ngày nay y học gọi là tai biến mạch máu não. Một giáo sĩ tên Longer, có mặt ở Đàng Ngoài vào những thời điểm này, đã viết trong một bức thư đề ngày 21 tháng 12 năm 1792 là vua Quang Trung chết vì bệnh, nhưng không rõ là bệnh gì. Các nhà nghiên cứ về sau gạt bỏ các chi tiết mê tín trong Ngụy Tây liệt truyện thì họ cho rằng Quang Trung đã bị một cơn tăng huyết áp đột ngột Bác sĩ Bùi Minh Đức qua khảo cứu các nguồn tư liệu lịch sử, kết luận rằng Nguyễn Huệ "Xuất huyết não dưới màng nhện; nguyên nhân tử vong do viêm phổi sặc". Trang Thu viện Bình Định viết Suốt hai thế kỷ qua, nhiều điều nghi vấn về cái chết của vua Quang Trung vẫn chưa được "giải tỏa" một cách thỏa đáng. Liệu khoa học pháp y ngày nay có thể mang lại lời giải thích nào chăng? VÀI GIẢ THUYẾT Vua Quang Trung mất vào tuổi bốn mươi, giữa lúc đang chuẩn bị thực hiện hai ý đồ hết sức lớn lao ông dự tính mở một chiến dịch lớn để tiêu diệt quân Nguyễn Ánh và bọn can thiệp Pháp để hoàn thành việc thống nhất đất nước; đồng thời tích cực đòi lại hai tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông từ nhà Thanh bên Trung Quốc. Trong bối cảnh lịch sử như vậy, triều đình đã tuyệt đối giữ bí mật về cái chết của nhà vua, ra lệnh giới nghiêm "nội bất xuất, ngoại bất nhập" ngăn chặn từ xa mọi con đường tới kinh đô Phú Xuân. Đến nỗi ngay người anh cả của nhà vua là Nguyễn Nhạc, khi nghe tin vua mất, dẫn một đoàn hơn ba trăm người từ Quy Nhơn ra cũng bị chặn lại ở Quảng Ngãi, chỉ để có một mình bà chị được đi tiếp. Cho đến nay, đã có nhiều giả thuyết được đưa ra nhưng chưa giả thuyết nào có được chứng cứ xác thực, đủ sức thuyết phục. Có thể tập trung những giả thuyết này vào những ý chính sau đây 1. Trong khi tích cực chuẩn bị binh mã để tiến đánh chiếm Quảng Tây, Quảng Đông, vua Quang Trung đã làm một động tác ngoại giao nghi binh phái Đại tường Võ Văn Dũng cầm đầu một thái đoàn sang triều đình nhà Thanh dâng biểu xin cầu hôn con gái vua Càn Long và đòi lại đất lưỡng Quãng, cốt để "dò xem ý vua Thanh và cũng để mượn cớ gây binh đao" Hoàng Lê Nhất Thống Trí, và Đại Nam chính biên liệt truyện. Vua Càn Long lúc đó đã tám mươi tuổi, đã trị vì hơn sáu mươi năm, là người đã hết sức lão luyện về mọi mưu mô chính trị, liệu còn có thể bị "đánh lừa" như khi tiếp "Quang Trung giả" ở nhiệt Hà và Bắc Kinh với những lời thơ chan chứa tình cảm "Mới gặp nhau mà như đã thiên thu… Người xa nhưng Trẫm luôn nhắc nhở. Hội ngộ thịnh thời thỏa ước mơ"? Lần này, chắc chắn vị vua cáo già ấy đã nhìn rõ ý định của vua Quang Trung nên "tương kế tựu kế" một mặt chấp nhận cả hai đề nghị của vua Quang Trung, mặt khác lại cho người sang ám hại nhà vua bằng thứ võ khí nham hiểm nhất là thuốc độc. 2. Vào năm 1961, một người tên Nguyễn Thượng Khánh, tự nhận mình thuộc chi phái Lê Duy Mật của hoàng tộc nhà Lê, đã viết một loạt bài đăng trên tạp chí Phổ thông xuất bản ở Sài Gòn từ số 61 đến 65 dưới nhan đề "Vua Quang Trung chết vì một liều độc dược của Ngọc Hân công chúa". Ông cho đó là một sử liệu bí mật của dòng họ nhà ông, có liên quan đến lịch sử mà "xưa nay chưa ai phát hiện ra". Theo ông này, khi được tin vua Càn Long hứa gả con gái cho Quang Trung, "trong một phút bồng bột vì quá ghen, Ngọc Hân đã bỏ thuốc độc cho Quang Trung uống". Đi xa hơn nữa, ông còn cho rằng "cuộc hôn phối giữa Nguyễn Huệ và Ngọc Hân không là cuộc hôn phối tốt đẹp, lẽ tự nhiên có một sự oán hờn bên trong", và "nếu không vì chữ hiếu thì Ngọc Hân đã có thể chết đi được khi nàng được tin phải làm vợ của tướng Tây Sơn”. Lại đi xa hơn nữa, ông còn cho rằng “bài văn tế Quang Trung và Ai Tư vãn cho là của Ngọc Hân công chúa nhưng sự thật chưa hẳn đã đúng…” Những bài báo của ông Khánh đã gây ra một sự phẫn nộ và phản ứng mạnh mẽ không những từ các nhà học giả, giới tri thức mà cả từ con cháu dòng dõi Lê Duy Mật ở rải rác khắp miền Nam. Sau đó, nhiều bài báo đã vạch ra những sai lầm, dốt nát về lịch sử của ông Khánh, phê phán óc tưởng tượng bệnh hoạn của ông đã dám xúc phạm đến những vị anh hùng, liệt nữ được cả dân tộc mến yêu. Cuối cùng, người ta đã về tận sinh quán của ông Khánh để tra cứu gia phả thì xác minh ông không phải là dòng dõi Lê Duy Mật như ông đã tự nhận. Như vậy, tóm lại chỉ có hai giả thuyết chính nhà vua đã chết vì đầu độc, hay chết vì bệnh nhưng không rõ là bệnh gì. THỬ PHÂN TÍCH THEO KHOA HỌC PHÁP? Về mặt pháp y, thông thường chỉ có bốn nguyên nhân gây ra cái chết. Đó là chết vì tai nạn xe cộ, lao động..., chết vì tự sát, chết vì án mạng bị giết và chết tự nhiên bệnh tật, tuổi già.... Trong thực tế thì phức tạp hơn nhiều một vụ án mạng có thể được ngụy trang thành một vụ tự tử, một tai nạn, thậm chí một vụ chết tự nhiên. Và ngược lại, có những dấu hiệu có thể làm nhầm lẫn một tai nạn, một vụ tự tử , một cái chết tự nhiên với một vụ án mạng tinh vi có chủ mưu. Trong trường hợp vua Quang Trung, có thể loại bỏ ngay nguyên nhân tự tử. Còn về nguyên nhân tai nạn thì có nghi vấn, không có sử sách nào nói trong suốt cuộc đời trận mạc, nhà vua đã có lần nào bị thương chưa, bị thương ở phần nào của cơ thể, nhất là có bị thương vào đầu không chấn thương sọ não. Về hai nguyên nhân chính bị đầu độc và bị bệnh - thì hai nguyên nhân này cũng không loại trừ nhau. vì có thể có những vụ "đầu độc dần dần", gây nên một sự nhiễm độc chậm, không làm chết nhanh chóng, chết đột ngột mà làm cho cơ thể bị nhiễm độc biểu hiện ra bằng những triệu chứng có thể nhầm với bệnh tật. Ngược lại, cũng có những bệnh tật thực sự, trong quá trình diễn biến sinh ra độc tố, có thể biểu hiện ra bằng những dấu hiệu giống như bị đầu độc. Trong trường hợp của vua Quang Trung , có thể khẳng định nhà vua không chết đột ngột mà đã trải qua một quá trình bệnh tật nhiều ngày "Từ nắng hạ, mưa thu trái tiết...", được Ngọc Hân tận tình cứu chữa, lo chạy "khắp mỗi chốn đâu đâu tìm rước. Phương pháp nào đối được cùng chăng?" - Ai Tư vãn. Chúng tôi cho rằng có thể gạt bỏ giả thuyết bị đầu độc, vì để đầu độc một người chết dần dần như bị bệnh không phải là chuyện dễ, phải có chất độc thích hợp. Chất gì, kiếm ở đâu ra, làm sao mang được vào trong cung vua, dùng với liều lượng nào để không gây chết nhanh, Trong lịch sử nước ta, không hề nghe nói có vụ nào dần dần như vậy. Uống thuốc độc tự tử hay "tam ban triều điển" thường là chết rất nhanh, vừa uống khỏi mồm là đã vật vã chết rồi. Cuối cùng, chỉ có giả thuyết chết vì bệnh có lẽ gần sự thật nhất. Nhưng chết vì bệnh gì? Suy luận theo những kiến thức Tây y đương đại, chúng tôi nghĩ rằng một con người như vua Quang Trung, đang ở độ tuổi sung sức, hoạt động mãnh liệt, đánh đông dẹp bắc, ngày đêm lo nghĩ, có một cuộc sống cực kỳ căng thẳng, nói như ngày nay là "luôn luôn bị những stress" như vậy thì không tránh khỏi bệnh cao huyết áp. Thêm vào đó là chế độ dinh dưỡng của một ông vua ngày nào cũng mỡ thịt phủ phê, làm sao không để lại một tỉ lệ cholestérol cao trong máu, dẫn đến xơ vữa động mạch - nguyên nhân của những tai biến mạch máu não. Ta không thể bỏ qua được điều giải thích trong sách Ngụy Tây liệt truyện gạt bỏ những chi tiết mê tín dự đoan và ác ý chính trị thì cái lõi còn lại chính là triệu chứng của một cơn tăng huyết áp đột ngột, mà Tây y mô tả như, ở thời chiến trận ngày xưa, người ta dùng những cây gỗ thật lớn lao vào cửa thành để phá cửa Un coup de bélier hypertensif - Người bệnh bỗng xây xẩm mặt mày, ngã xuống bất tỉnh... Tóm lại, chúng tôi nghĩ rằng giả thuyết vua Quang Trung chết vì bệnh có thể là gần sự thật hơn cả. Nhà vua có thể từ lâu đã bị cao huyết áp, và đã chết vì một tai biến mạch máu não. Dù sao, giả thuyết vẫn chỉ là giả thuyết thôi, bao giờ cũng khập khiễng và để lại nhiều tồn nghi./. Trên phương diện TỬ VI ta thấy gì? Hai hạn của nhà Vua có nhiều đối tượng. Đại hạn có Huynh, Tử. Tiểu hạn có Thê. Nhưng không có thù oán, oan khốc tại 2 hạn, chỉ có Cô Quả không giao du. Đặc biệt cung Huynh Đề của Vua có BỆNH PHÙ Tam Không có Hình xung... Đây chỉ mới xung thôi, nơi THIÊN HÌNH trừng phạt chính là cung Nô Bộc. Cung Nô Bộc bị HÌNH KHÔI KHÔNG KIẾPCỰ ĐỒNG... Nhà vua từng giết Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm một số tướng của Tây Sơn phải đầu quân cho Nguyễn Vương. Cũng trong đại hạn này năm Đinh Mùi 1787 hai anh em xung đột với nhau, theo mô tả của Wiki vắn tắt dưới đây. Nếu an lưu động bạn sẽ thấy năm đó tại Huynh Đệ cung có Lưu KÌNH. Ở đây người viết không muốn đi sâu vào cung Huynh Đệ nhưng nhằm chứng minh, loại trừ cung Huynh Đệ không có dính dáng đến cái chết của nhà vua. Sau này người viết sẽ chứng minh một người bị người khác giết, khác với đau ốm bệnh tật như thế nào, mặc dù tại đây có Âm nhưng không có thể đưa đến âm mưu ám hại. Hai anh em không ưa nhau từ chỗ âm thầm đã chuyển qua công khai đánh nhau, đó chẳng qua là việc làm bất đắc dĩ. Ứng hợp với cung đại hạn có thấy cung Huynh Đệ. Trang Wiki viết Mâu thuẫn của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ ngày càng lớn. Vua Tây Sơn vốn không có ý đánh ra Bắc Hà, chỉ muốn chiếm Nam Hà việc Huệ đánh Bắc Hà là trái ý Nguyễn Nhạc, lại thấy Nguyễn Huệ ở Bắc Hà lâu quá sau khi thắng nên Nguyễn Nhạc đâm ra lo sợ vì khó kiềm chế được Nguyễn Huệ. Nguyễn Nhạc tuyển một đội lính hộ tống đi ra Bắc và đòi Nguyễn Huệ về. Dù chính Nguyễn Huệ đã ra tận ngoài cửa ô tiếp đón, cả hai cùng đi triều kiến vua Lê rồi về Nam nhưng Nguyễn Nhạc vẫn chưa bằng lòng. Tới Phú Xuân, Nguyễn Huệ ở lại còn Nguyễn Nhạc trở về Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc đưa ra nhiều đòi hỏi tỏ uy quyền mà Nguyễn Huệ từ chối bắt Nguyễn Huệ đi chầu, nộp chiến lợi phẩm và nộp đất Quảng Nam.. Nguyễn Huệ tỏ ra chống đối Nguyễn Nhạc và binh lính lại rất trung thành với ông. Nguyễn Nhạc phẫn chí, giết công thần Nguyễn Thung, hiếp vợ Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ chiếm nốt kho vàng của Tây Sơn ở Quy Nhơn để vận hành chiến tranh, thế là chiến tranh xảy ra. Nguyễn Huệ đánh nhau với Nguyễn Nhạc trong vài tháng đầu năm 1787, ông tổng động viên chừng 6 vạn tới 10 vạn quân. Họ đánh nhau dữ dội và sau đó Nguyễn Huệ tiến đến vây thành Quy Nhơn, đắp thành đất, bắn đại bác vào thành. Nguyễn Nhạc bị vây bức quá phải vào đền thờ cha mẹ khóc rồi kêu Đặng Văn Chân từ Gia Định về cứu nhưng quân Đặng Văn Chân tới nơi lại bị Nguyễn Huệ đánh tan, buộc Đặng Văn Chân phải tới hàng. Tuy quân của Nguyễn Huệ trong các cuộc công thành thương vong đến phân nửa nhưng tình thế buộc Nguyễn Nhạc phải lên mặt thành khóc xin em "Nỡ lòng nào mà nồi da xáo thịt như thế". Nguyễn Huệ nể tình anh em, thôi hãm thành và bằng lòng giảng hòa với vua anh, rồi rút về Thuận Hóa MỆNH của vua Quang Trung hưởng cách “Hưởng đắc an toàn chi phúc” không bị thương tích vào thân thể, không bị ám toán, không bị phá cách. Nếu có, thì đáng nghi ngờ. Cho nên bị ám hại nên loại trừ, tuy nhiên cung an Thân có Lang Hổ, thiên về mâu thuẩn trên dưới nội bộ. Phúc Đức cung chỉ báo ngắn ngủi mà thôi. Đại hạn của nhà vua THÁI DƯƠNG có tính minh bạch công khai rõ ràng, tiểu hạn có tính bí mật của TỬ VI chứ không âm mưu, âm thầm, mờ ám như THÁI ÂM. Ta có quyền nghi nghi vì bên ngoài TỬ VI có cả 2 Kỵ hội họp. Nếu có thêm Hình mới đáng ngờ hơn. Cái chết của vua Quang Trung, ở đây ta chỉ bàn sâu về chết vì cái gì, bệnh hay bị ám toán mà thôi. MỆNH THẤT SÁT hạn ngộ LỘC TỒN là một yếu tố xấu. 5 ăn 5 thua. LỘC TỒN lại có CỰ MÔN xung. Cát xứ tàng hung. Đại hạn ngộ Dương hãm Tuần tiểu hạn ngộ TỬ VI, THIÊN PHỦ TRIỆT mà ta biết TỬ VI rất kỵ TRIỆT. Cả 2 hạn đều ngộ Không Vong, lại có Lưu TUẦN TRIỆT. Như vậy cả 2 hạn bị Vong Tinh cố định và lưu động, Trong đó TỬ VI kỵ nhất. Vì dễ cái họa “ giữa đường đứt gánh”, “Từ bỏ nhiệm vụ”, “Tử vong cách”... nếu thấy thêm THIÊN KHÔNG thì cực xấu. Cũng tại đại hạn này có bộ KHÔI VIỆT BỆNH PHÙ chủ Phát Sinh Bệnh., tiểu hạn cũng gặp bộ sao lưu động cùng tên, chủ Vua phát Bệnh mà mất. Chưa hết chuyện nhà vua còn thêm cách xấu nữa. Lưu Đại BẠCH HỔ tại MỆNH. Và “THẤT SÁT lưu niên BẠCH HỔ tai thương”. Nếu cộng tất cả các yếu tố đó lại, nhẹ tay cũng 5 điểm xấu. Mà 5 điểm xấu là coi như mạt lộ, trong đó TỬ VI ngộ TRIỆT lại gặp Lưu TUẦN TRIỆT lại thêm lưu lưỡng Kỵ, chỉ riêng yếu tố này thôi là trên 2 điểm xấu. Chết vì lý do gì? Bệnh gì? Một người có THẤT SÁT không cần phải THẤT SÁT đi với KÌNH HỎA là lửa bốc đầy đầu, đi với THẤT SÁT bị bệnh tăng áp, nếu ĐÀ Hỏa lại thiên về giám, hạ áp. Tật ách cung nhà vua có bộ VIÊT HỒNG gia ĐỊA KIẾP, đại hạn đang hội họp với LOAN chủ máu, chủ hệ tim mạch, VIỆT chủ phát sinh, thái quá,, VIỆT KIẾP chủ phát sinh tai họa... Và năm nay lại có lưu VIỆT HỒNG tụ tập. Hay nói cách khác tại Tật Ách cung đã báo trước bởi bộ VIỆT HỒNG BỆNH PHÙ có KIẾP, năm nay cũng bộ sao ấy Lưu động kích thích bộ cố định làm việc, cũng là lúc đại hạn có bộ sao này. bạn cần đọc kỹ đoạn này. Nhìn bản đồ sao lưu động thấy rất là rõ. Vậy thì nhà Vua bị đứt mạch máu mà chết. Đến Tồn mà không Tại. Bạn có tin khi một hạn TỬ VI xấu dễ bị đứt không nhỉ? Nó không đứt cái này thì đứt cái khác, quan trọng là tìm cho ra cái gì đứt đây, cái gì chết đây.. Không tin tìm ông Nguyễn Thái Học mà hỏi. Bạn có biết, trong nhóm các sao lưu động, có một sao xuất hiện tại Tật Ách, ta có quyền nghi ngờ người ấy bị giết? Bạn nào thử đoán xem. Ta nên quy nạp cách chết của Vua Quang Trung là một hạn tại TUẦN và một hạn tại TRIỆT gặp các sao Lưu cùng tên đồng cung, có TỬ VI ngộ TRIỆT theo tính toán của người viết thì 432 người mới có trường hợp kể trên. Từ đó bạn rút ra một kết luận. So sánh với các trường hợp sẽ gặp khi luận đoán. Như trường hợp nhà Vua bất lợi trước LỘC TỒN lại lưu LỘC TỒN, TỬ VI ngộ TRIỆT lại lưu thêm TRIỆT. Cũng hạn như thế này những sao ưa LỘC TỒN lấy đâu mà chết. Các sao CỰ MÔN, SÁT PHÁ dị ứng với LỘC TỒN các sao còn lại, được kể là không dị ứng. Phần tâm tình Khi đọc bài viết này, người viết tin rằng có ít nhất 2 người tiếp thu nhanh và đánh giá cao tầm quan trọng của sao lưu động. Bạn cũng cần chú ý an KHÔI VIỆT, KHOA tuổi Nhâm cho chính xác. Trước một lá số TỬ VI bạn nên Phân tích như thế này. Nhưng trước hết nên an lá số TỬ VI nho nhỏ thôi, để có cái nhìn tập trung, nên tập an tay cho quen mới mong giỏi được, nếu không chẳng bao giờ giỏi đâu. Nhà nghiên cứu mà chẳng biết LƯU HÀ thuộc nhóm sao nào cũng bày đặt nghiên với cứu.... Tách các chính tinh ra. Đó là nhóm sao nghiệp chướng. Nghiệp chướng của nhà vua là THẤT SÁT. Xem bài THẤT SÁT được và mất, thắng và thua.... Còn lại bộ Can Chi là là tính cách của người đó. trong trường hợp này là bộ ĐẠI THÁI TUẾ, bộ sao này chủ đại chí. Vòng sao còn lại là vòng TRƯỜNG SINH. Các sao còn lại như XƯƠNG KHÚC, Tả Hữu, KHÔNG KIẾP, Kỵ hình... giúp chúng ta quyết đoán. Cũng với THẤT SÁT tại Thân nhưng đí với TIỂU THÁI TUẾ lại là rất tầm thường... Tại đây bạn mới làm quen các bộ VIỆT BỆNH PHÙ, bộ Đại Hổ, Đại Thái... chỉ mới nghe bàn đến lần đầu. Thật ra người viết định viết về bộ PHI VIỆT và các biến dạng của nó, nhưng bị hấp dẫn bởi 1 người thân viết đề tài, nghi vấn lịch sử VŨ KỴ về cái chết của nhà vua. Kỳ tới có thể viết cũng lá số của một người, cũng THẤT SÁT tại Thân bị chết bởi giết, lúc đó bạn sẽ thấy bị giết khác với bị chết dễ phát hiện chứ không có gì khó khăn cả. Tất nhiên là lá số của một nhân vật có tiếng nếu không dễ mang tiếng bịa ra mà nói. Nhưng để hiểu điều đó chúng ta phải bất đắc dĩ tìm hiểu lá số vua Quang Trung. Mời thư giãn với nhạc phẩm MÁI ĐÌNH LÀNG BIỂN của Nguyễn Cường, qua tiếng hát Tùng Dương * KHUYẾT DANH đang cập nhật Địa chỉ đang cập nhật Email đang cập nhật Điện thoại đang cập nhật - Đặng Xuân Xuyến giới thiệu -

ai giết nguyễn bình